Kinh nghiệm kiểm toán và các phát hiện trong quản lý, sử dụng tài sản công tại các cơ quan quản lý nhà nước

(sav.gov.vn) - Tài sản công là nguồn lực quan trọng của quốc gia, đóng vai trò thiết yếu trong việc đảm bảo hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ lợi ích công cộng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Việc quản lý, sử dụng tài sản công một cách hiệu quả không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước mà còn là giải pháp quan trọng để phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách.

Trong bối cảnh đó, hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) nói chung và KTNN Khu vực VI nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá, phát hiện các bất cập, sai phạm trong quản lý, sử dụng tài sản công tại các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn quản lý. Qua các cuộc kiểm toán, KTNN Khu vực VI không chỉ ghi nhận những kết quả tích cực mà còn chỉ ra nhiều hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công. Bài viết này sẽ phân tích cơ sở pháp lý, thực trạng quản lý tài sản công, các phát hiện kiểm toán và đề xuất giải pháp dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của KTNN Khu vực VI.

Cơ sở pháp lý và thực trạng quản lý, sử dụng tài sản công

Hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công tại Việt Nam hiện nay đã được xây dựng tương đối đầy đủ và đồng bộ, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác quản lý. Điểm nhấn quan trọng là Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14, được Quốc hội thông qua ngày 21/6/2017. Luật này đã đặt ra các nguyên tắc cơ bản, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng tài sản công, đồng thời quy định các tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản phù hợp với điều kiện thực tiễn. Để cụ thể hóa Luật, Chính phủ đã ban hành hàng loạt nghị định hướng dẫn chi tiết, như Nghị định số 114/2024/NĐ-CP ngày 15/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017, quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Nghị định số 171/2024/NĐ-CP ngày 27/12/2024 sửa đổi Nghị định số 166/2017/NĐ-CP về tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý tài sản công của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài; Nghị định số 108/2024/NĐ-CP ngày 23/8/2024 về quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất công không sử dụng để ở; hay Quyết định số 11/2024/QĐ-TTg ngày 24/7/2024 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chuẩn diện tích và định mức trang thiết bị nội thất nhà ở công vụ.

Ngoài ra, còn có các văn bản pháp luật khác điều chỉnh quản lý tài sản công trong các lĩnh vực cụ thể, như Nghị định số 72/2023/NĐ-CP ngày 24/7/2024 về tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; Nghị định số 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 về quản lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước; Nghị định số 29/2018/NĐ-CP ngày 05/3/2018 về trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản; và các nghị định quy định quản lý tài sản kết cấu hạ tầng như hàng hải (Nghị định số 43/2018/NĐ-CP), hàng không (Nghị định số 44/2018/NĐ-CP), đường sắt (Nghị định số 15/2025/NĐ-CP), đường thủy nội địa (Nghị định số 12/2025/NĐ-CP), thủy lợi (Nghị định số 08/2025/NĐ-CP), cùng Nghị định số 03/2025/NĐ-CP về sắp xếp, xử lý nhà, đất công. Các địa phương cũng đã ban hành văn bản pháp luật cụ thể hóa, xác định rõ đối tượng được giao quản lý, sử dụng tài sản công, gắn với quyền và nghĩa vụ của tập thể, cá nhân và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Cơ chế phân cấp quản lý tài sản công được xây dựng dựa trên nguyên tắc: tài sản do cấp nào quản lý thì cấp đó quyết định việc đầu tư, mua sắm, sử dụng, khai thác và xử lý tài sản. Thẩm quyền quyết định trong nội bộ địa phương được giao cho Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với năng lực quản lý của từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Từ khi Luật Quản lý, sử dụng tài sản công có hiệu lực, công tác quản lý tài sản công đã nhận được sự quan tâm triển khai từ các cấp, các ngành, cấp ủy và chính quyền địa phương. Nhận thức và thực tiễn thực hiện đã có những chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện mục tiêu phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công. Một trong những kết quả nổi bật là việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ khai thác tài sản công, đặc biệt là nhà, đất. Tổng số thu từ nhà, đất công hàng năm chiếm tỷ lệ ngày càng tăng, góp phần đảm bảo cân đối ngân sách các cấp, thông qua các nguồn thu từ giao đất, cho thuê đất và xử lý tài sản công.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý, sử dụng tài sản công vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục. Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật dù tương đối đầy đủ nhưng vẫn chưa bao quát hết các loại tài sản công, đặc biệt là tài sản kết cấu hạ tầng như hạ tầng cấp nước sạch, hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch, hay hạ tầng kỹ thuật. Một số nội dung về khai thác tài sản công, chẳng hạn như lắp đặt máy ATM, trạm thu phát tín hiệu BTS, hay tấm pin năng lượng mặt trời, chưa được quy định cụ thể, dẫn đến khó khăn trong triển khai thực tế. Thứ hai, cơ chế phân cấp quản lý tài sản công còn bất cập, khi nhiều thẩm quyền tập trung ở cấp trên, như việc bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thu hồi nhà, đất công đều phải trình Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt. Điều này không chỉ làm phức tạp thủ tục hành chính mà còn kéo dài thời gian xử lý, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý.

Thứ ba, tiến độ sắp xếp lại, xử lý tài sản công, đặc biệt là nhà, đất và xe ô tô, còn chậm ở cả khâu lập phương án, phê duyệt và tổ chức thực hiện. Nhiều trường hợp sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết nhưng chưa lập đề án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Công tác kiểm kê, phân loại, giao tài sản hạ tầng giao thông, thủy lợi cho các đối tượng quản lý cũng không hoàn thành đúng tiến độ quy định, dẫn đến tình trạng lãng phí hoặc sử dụng sai mục đích. Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và giám sát tuy đã được các cơ quan chức năng chú trọng nhưng chưa thực sự thường xuyên và liên tục. Điều này khiến việc phát hiện các sai phạm trong quản lý, sử dụng tài sản công còn hạn chế, một số vi phạm kéo dài gây khó khăn trong khắc phục hậu quả. Cuối cùng, cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công hiện nay chưa bao quát toàn diện, thiếu thông tin về tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân, tài sản công tại doanh nghiệp, đất đai và tài nguyên, làm giảm khả năng kiểm soát và quản lý hiệu quả.

Để khắc phục những hạn chế trên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp. Trước hết, cần hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công bằng cách rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy định chi tiết về quản lý, khai thác các loại tài sản kết cấu hạ tầng như hạ tầng cấp nước sạch, hạ tầng đô thị, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch... Đồng thời, tổ chức sơ kết, đánh giá việc thực hiện Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn để đề xuất các sửa đổi phù hợp với thực tiễn. Tiếp theo, cần tăng cường công tác quản lý, giám sát, xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm trong quản lý tài sản công theo quy định của pháp luật. Việc xây dựng Hệ thống giao dịch điện tử về tài sản công và Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công cũng là giải pháp quan trọng để nâng cao tính minh bạch và hiệu quả quản lý.

Các phát hiện qua hoạt động kiểm toán tại KTNN Khu vực VI

Hoạt động kiểm toán của KTNN Khu vực VI đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện các sai phạm, tồn tại trong quản lý, sử dụng tài sản công tại các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn quản lý. Qua rà soát các báo cáo kiểm toán do KTNN Khu vực VI chủ trì, nhiều vấn đề nổi cộm đã được ghi nhận, đặc biệt liên quan đến quản lý đất đai trước khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực và trong giai đoạn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (2011-2017).

Sai phạm về đất đai trước khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực: Qua các cuộc kiểm toán, KTNN Khu vực VI đã phát hiện nhiều bất cập trong quản lý đất đai, bao gồm các khía cạnh sau. Thứ nhất, về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, tồn tại sự sai lệch giữa quy hoạch sử dụng đất chi tiết được Chính phủ phê duyệt và quy hoạch cấp tỉnh. Một số địa phương chưa lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006-2010 hoặc chậm phê duyệt. Nhiều dự án điều chỉnh mặt bằng tổng thể không đúng quy định, thiếu đất cây xanh, trường học, hệ thống xử lý nước thải, hoặc không đảm bảo mật độ xây dựng theo quy chuẩn Việt Nam. Chẳng hạn, một số khu dân cư - đô thị đã được quy hoạch nhưng chưa đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Đấu thầu, song địa phương vẫn cho phép lập quy hoạch chi tiết 1/500 và phê duyệt dự án.

Thứ hai, về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhiều trường hợp chưa được thực hiện đúng quy định. Ví dụ, một doanh nghiệp khai thác quặng Boxit đã kê khai và nộp tiền thuê đất hàng năm, nhưng từ năm 1999 đến 2018 chưa được ký hợp đồng thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thứ ba, về chuyển đổi mục đích sử dụng đất, kế hoạch thu hồi đất để thực hiện các dự án công trình thường chậm triển khai. Năm 2011, kế hoạch thu hồi đất cho 32 dự án, nhưng đến năm 2018 chỉ có 10 dự án được thực hiện, 22 dự án còn lại chưa triển khai. Năm 2012, kế hoạch cho 06 dự án nhưng đến năm 2017 chưa có dự án nào hoàn thành.

Thứ tư, về xác định giá đất và đấu giá quyền sử dụng đất, công tác xây dựng bảng giá đất hàng năm chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định về phương pháp định giá và khung giá. Bảng giá đất các năm 2010, 2011, 2012 và 2013 không xác định đầy đủ các vị trí, gây khó khăn trong xác định giá đất cụ thể. Thứ năm, còn tồn tại nhiều hạn chế khác như đất khu tập thể xây dựng từ năm 1960 cho cán bộ, công nhân viên sử dụng, dù doanh nghiệp đã đề nghị chuyển giao cho chính quyền địa phương nhưng đến năm 2018 vẫn chưa thực hiện. Một số dự án chậm tiến độ giải phóng mặt bằng, chưa đảm bảo kiến trúc đồng bộ hoặc chưa hoàn thành công tác bảo vệ môi trường theo quy định.

Sai phạm trong quản lý đất đai giai đoạn 2011-2017 (sau cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước): Qua cuộc kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất trong và sau quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) giai đoạn 2011-2017 tại Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và Bắc Giang, KTNN Khu vực VI đã phát hiện nhiều sai phạm. Tại Hải Phòng, một số tổ chức sử dụng đất không đúng mục đích, không khai thác hết tiềm năng, cho thuê lại đất trái quy định, chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính về đất. Các sở, ngành chưa chủ động phối hợp tham mưu cho UBND thành phố quản lý đất đai sau cổ phần hóa, dẫn đến buông lỏng quản lý các vị trí đất đã thu hồi.

Tại Hưng Yên, đất được thuê không sử dụng hết, một số diện tích bị cho thuê lại trái phép, chủ đầu tư dự án thiếu năng lực tài chính, trong khi UBND cấp huyện và xã không quản lý chặt chẽ, để người dân tự ý xây dựng công trình kiên cố trái phép. Tại Hải Dương, đất thuê bị lãng phí, chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất sản xuất kinh doanh sang đất ở kết hợp kinh doanh không phép, hoạt động kinh doanh trên đất không đúng ngành nghề phê duyệt, các sở, ngành chưa tham mưu hiệu quả cho UBND tỉnh. Tại Bắc Giang, tình trạng tương tự xảy ra với đất thuê không sử dụng hết, cho thuê lại không phép và chậm xử lý sai phạm. Tại Quảng Ninh, cơ quan quản lý chậm xác định nghĩa vụ tài chính, chưa kịp thời thu hồi đất của đơn vị vi phạm, chủ trương giao đất và chuyển mục đích sử dụng đất chưa phù hợp quy hoạch.

Hoạt động kiểm toán của KTNN Khu vực VI đã chỉ ra nhiều bất cập trong quản lý, sử dụng tài sản công, đặc biệt là đất đai, tại các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn quản lý. Những phát hiện này không chỉ phản ánh thực trạng quản lý tài sản công mà còn là cơ sở để đề xuất các giải pháp cải thiện. Để nâng cao hiệu quả quản lý, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, bổ sung quy định chi tiết về quản lý tài sản kết cấu hạ tầng, tăng cường giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm và xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện về tài sản công. Những kinh nghiệm và phát hiện từ hoạt động kiểm toán của KTNN Khu vực VI sẽ là bài học quý báu, góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán, đồng thời hỗ trợ các cơ quan chức năng hoàn thiện chính sách, đảm bảo tài sản công được quản lý minh bạch, hiệu quả, phục vụ tốt hơn lợi ích công cộng./.

Hoàng Ngân