Để Kiểm toán nhà nước trở thành công cụ trọng yếu và hữu hiệu trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công
Trình bày Tờ trình, Tổng Kiểm toán nhà nước Hồ Đức Phớc cho biết, Luật Kiểm toán nhà nước (KTNN) năm 2015 đã thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, cụ thể hóa quy định tại Điều 118 Hiến pháp năm 2013. Đây là văn bản pháp lý quan trọng cho tổ chức, hoạt động của KTNN, bảo đảm thiết chế KTNN có đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; nâng cao tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; góp phần thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí; phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, nhất là trong thời đại công nghệ 4.0, gắn với việc hội nhập quốc tế đòi hỏi nâng cao hơn nữa năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KTNN; đồng thời, sau hơn 3 năm thi hành, Luật KTNN 2015 bộc lộ một số vướng mắc, bất cập đòi hỏi phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.
Tổng Kiểm toán nhà nước nêu rõ, mục đích việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN 2015 nhằm: Góp phần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của KTNN, của Tổng KTNN; làm rõ và đầy đủ phạm vi, đơn vị được kiểm toán phù hợp với đối tượng kiểm toán theo quy định của Hiến pháp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN, bảo đảm sự đồng bộ với các luật khác có liên quan; đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý tài chính công, tài sản công, đấu tranh phòng, chống phòng, chống tham nhũng, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng
Tổng Kiểm toán nhà nước Hồ Đức Phớc cho biết, Dự thảo Luật bao gồm 3 điều: Điều 1 quy định về các nội dung sửa đổi, bổ sung; các khoản quy định nội dung sửa đổi, bổ sung được sắp xếp theo thứ tự tương ứng với trật tự các điều, khoản, điểm của Luật KTNN năm 2015; Điều 2 quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản; Điều 3 quy định về trách nhiệm tổ chức thực hiện.
Về một số nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể, tờ trình của KTNN chỉ rõ:
Về cơ quan, tổ chức, cá nhận có liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, thực hiện kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 32, KTNN đã chỉnh sửa Dự thảo Luật theo hướng không mở rộng đơn vị được kiểm toán mà quy định làm rõ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tại Điều 68 Luật hiện hành như quy định rõ: Nội hàm cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động KTNN tại khoản 1 Điều 68; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo hướng sửa đổi khoản 2 Điều 68.
Để có cơ sở pháp lý khi tiến hành đối với các đối tượng kiểm toán là các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công đã quy định tại Điều 4 Luật KTNN hiện hành, cần bổ sung khoản 2a Điều 68 theo hướng giao cho “Tổng Kiểm toán nhà nước quy định trình tự, thủ tục kiểm tra, đối chiếu trong thực hiện kiểm toán đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan quy định tại khoản 1 Điều này”.
Về bổ sung quy định thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, KTNN cho rằng, để bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa Luật KTNN với Luật Phòng, chống tham nhũng và các luật có liên quan, tạo cơ sở pháp lý để KTNN thực hiện nhiệm vụ về phòng chống tham nhũng, cần quy định bổ sung vào Điều 10 với nội dung: Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Đối với nội dung bổ sung quy định về trách nhiệm của trưởng đoàn kiểm toán, thành viên khi hoàn thành cuộc kiểm toán nhưng sau đó phát hiện sai phạm, KTNN cho rằng, để đảm bảo chặt chẽ, tránh trường hợp khi cơ quan có thẩm quyền xem xét về cùng một nội dung đã được thanh tra, kiểm toán nhưng việc xem xét được thực hiện trên hồ sơ, tài liệu khác (ngoài các hồ sơ, tài liệu đã cung cấp cho cơ quan trước) thì có thể có các phát hiện khác nhau. KTNN đề nghị quy định tại Điều 71 theo hướng: “Trường hợp sau khi kết thúc kiểm toán mà cơ quan thẩm quyền khác phát hiện vụ việc tham nhũng xảy ra tại cơ quan, tổ chức, đơn vị đã tiến hành kiểm toán về cùng một nội dung, cùng hồ sơ, tài liệu đã kiểm toán thì Trưởng đoàn kiểm toán, thành viên Đoàn kiểm toán và cá nhân có liên quan đã tiến hành kiểm toán cuộc đó nếu có lỗi thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Quy định việc truy cập dữ liệu điện tử để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, KTNN cho rằng Luật hiện hành chưa quy định rõ quyền truy cập dữ liệu điện tử của đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động kiểm toán. Do vậy, cần quy định rõ nội dung: KTVNN có quyền truy cập vào dữ liệu điện tử của đơn vị được kiểm toán và dữ liệu điện tử quốc gia; yêu cầu đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan cùng truy cập phần mềm ứng dụng của đơn vị để khai thác, thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán.
Lý do cơ quan soạn thảo đưa ra nội dung này là do: Hiện nay, toàn thế giới đang thực hiện cuộc cách mạng 4.0, theo đó các hoạt động đều được điện tử hóa, như: hóa đơn điện tử, chứng từ điện tử, thanh toán điện tử, dữ liệu điện tử; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán là yêu cầu thực tiễn và xu thế phát triển. Việc truy cập dữ liệu điện tư của đơn vị được kiểm toán và dữ liệu điện tử quốc gia để khai thác, thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán sẽ giúp giảm nhân lực, biên chế kiểm toán, rút ngắn thời hạn cuộc kiểm toán, thời gian kiểm toán trực tiếp tại đơn vị được kiểm toán, nâng cao hiệu quả kiểm toán; khi khai thác và truy cập thông tin, dữ liệu điện tử thì KTNN chịu trách nhiệm đảm bảo tính bảo mật trong việc bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp; qua nghiên cứu Luật một số nước cho thấy, các nước đều quy định khi thực hiện kiểm toán được phép truy cập, khai thác thông tin hồ sơ, tài liệu cần thiết qua dữ liệu điện tử.
Các nội dung khác được đưa ra gồm: Quyền khiếu nại báo cáo kiểm toán; Căn cứ ban hành quyết định kiểm toán khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật; Bổ sung nhiệm vụ giám định tư pháp về tài chính công, tài sản công trong các vụ án tham nhũng; Quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng Kiểm toán nhà nước; Quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán; Bổ sung quy định về trách nhiệm phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để hạn chế tình trạng chồng chéo…
Thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước 2015 - Hoàn thiện sửa đổi theo hướng KTNN là cơ quan “độc lập chỉ tuân thủ pháp luật”
Trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước 2015, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân sách (TC-NS) Nguyễn Đức Hải cho biết, đa số ý kiến thành viên Ủy ban tán thành về sự cần thiết và phạm vi sửa đổi, bổ sung Luật. Bên cạnh đó, một số ý kiến đề nghị, xác định rõ địa vị pháp lý của KTNN trong cơ chế phân công quyền lực Nhà nước từ đó xác định mô hình, sửa đổi toàn diện các điều khoản của Luật cho phù hợp với tư tưởng của Hiến pháp và cần tiếp tục hoàn thiện sửa đổi theo hướng KTNN là cơ quan “độc lập chỉ tuân thủ pháp luật”, bổ sung các quy định cụ thể về công khai báo cáo kiểm toán và quy trình thực hiện các khuyến nghị của báo cáo kiểm toán.
Bên cạnh đóm một số ý kiến của Ủy ban cho rằng việc sửa đổi Luật là chưa thực sự cần thiết vì sau 3 năm thực hiện, cơ bản Luật vẫn phù hợp thực tiễn; nhiều nội dung sửa đổi liên quan đến các Luật chuyên ngành nhưng dự thảo Luật chưa quy định rõ, cụ thể để đảm bảo thống nhất; nhiều sửa đổi quan trọng chưa nhận được sự đồng tình của Chính phủ. Có ý kiến đề nghị không nên bổ sung các quy định liên quan đến Luật khác mà nên tổng kết, đánh giá vướng mắc trong thực tiễn để sửa chính các Luật đó.
Chủ nhiệm Ủy ban TC-NS cũng cho biết, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới chưa có trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), Luật Giám định tư pháp, Luật xử phạt vi phạm hành chính... Vì vậy, để bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống pháp luật, cần nghiên cứu, thuyết minh, bổ sung điều, khoản sửa đổi trong Luật KTNN để thay thế, bổ sung các điều, khoản bị sửa đổi trong các Luật có liên quan theo đúng quy định của Điều 12 Luật Ban hành VBQPPL.
Hồ sơ dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật KTNN, cơ bản đầy đủ theo quy định; hồ sơ trình kèm báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Chính phủ, ý kiến của UBTVQH; KTNN đã tiếp thu một số nội dung, đặc biệt là các ý kiến quan trọng của UBTVQH. Vì vậy, đa số ý kiến tán thành trình dự án Luật ra Quốc hội và tiếp tục nghiên cứu để hoàn chỉnh.
Về nội dung, “cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán”, Ủy ban TC-NS cho rằng, sửa đổi Luật cần tập trung: Làm rõ thế nào là “tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán”; Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán; Quy định quyền hạn, phạm vi, trình tự, thủ tục của KTNN trong việc kiểm tra, đối chiếu… đối với tổ chức, cá nhân có liên quan.
Đối với đề xuất bổ sung quyền truy cập dữ liệu điện tử, phần mềm ứng dụng, đa số ý kiến cho rằng, việc cấp quyền truy cập cho Kiểm toán viên là thành viên Đoàn kiểm toán là cần thiết để phục vụ cho hoạt động kiểm toán và phù hợp với thời đại công nghệ thông tin, xu thế của cách mạng 4.0. Tuy nhiên dữ liệu điện tử, phần mềm ứng dụng có nhiều loại thông tin khác nhau, có cả những thông tin mật, tối mật, tuyệt mật đồng thời việc truy cập đòi hỏi trình độ nhất định về công nghệ thông tin nên để quản lý, giám sát Kiểm toán viên và truy cứu trách nhiệm khi xảy ra vi phạm, sự cố thì cần quy định điều kiện về trình độ và phân quyền truy cập phù hợp với từng cấp độ Kiểm toán viên. Một số ý kiến đề nghị quy định theo hướng cấp quyền truy cập cho Kiểm toán viên như dự thảo Luật nhưng việc truy cập phải cùng với đơn vị được kiểm toán và bổ sung quy định về điều kiện truy cập, phân cấp quyền truy cập phù hợp.
Nêu ý kiến về việc bổ sung để KTNN thực hiện xử phạt vi phạm hành chính, đa số các thành viên Ủy ban TC-NS cho rằng đối với những hành vi vi phạm hành chính của các cá nhân, tổ chức không phải là cơ quan nhà nước, cán bộ công chức thì có thể quy định cho KTNN thực hiện xử phạt hành chính nhưng dự thảo Luật cần nghiên cứu để quy định rõ hành vi vi phạm bị xử phạt; xây dựng mức phạt tối đa, mức phạt và thẩm quyền xử phạt… Rà soát các điều khoản liên quan đến Luật xử phạt vi phạm hành chính để có phương án chỉnh sửa phù hợp. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu kỹ hơn và thực hiện sửa đổi khi sửa đổi Luật xử phạt vi phạm hành chính.
Ngoài các nội dung trên, một số ý kiến của Ủy ban đề nghị rà soát để thống nhất khái niệm “tài sản công” với Luật Quản lý tài sản công; rà soát để quy định đồng bộ với Luật Quản lý thuế; đề nghị đẩy mạnh công tác công khai báo cáo kiểm toán, quy định cụ thể phạm vi, nội dung, thời hạn công khai; công khai các báo cáo kiểm toán trên trang thông tin điện tử…/.
Ngọc Bích