Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN.
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành nội dung làm việc.
Số tiền nợ thuế không còn khả năng nộp NSNN là 42.990 tỷ đồng
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, tính đến 31/8/2019, tổng số tiền nợ thuế là 88.253 tỷ đồng, trong đó tiền nợ thuế không còn khả năng nộp NSNN là 42.990 tỷ đồng, chiếm 48,7% tổng số tiền nợ thuế. Theo đánh giá của cơ quan quản lý thuế, nguyên nhân của tình trạng trên là do người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, tự giải thể, phá sản, bị thiên tai, thảm họa bất ngờ không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước (NSNN). Cụ thể, có 1.227 người nộp thuế là người đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự với số tiền nợ thuế là 362 tỷ đồng; có 23.651 doanh nghiệp tự giải thể nhưng không thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp với số tiền nợ thuế là 2.230 tỷ đồng; có 264 doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tự phá sản nhưng không làm thủ tục phá sản theo quy định với số tiền nợ thuế là 772 tỷ đồng…
Các nhóm đối tượng nộp thuế có tiền nợ thuế (bao gồm cả tiền phạt, tiền chậm nộp) phát sinh trước ngày 01/7/2020 nhưng không có khả năng nộp NSNN bao gồm: Người nộp thuế là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; Người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh để làm thủ tục giải thể hoặc cơ quan đăng ký kinh doanh đã thông báo người nộp thuế đang làm thủ tục giải thể trên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nhưng người nộp thuế chưa hoàn thành thủ tục giải thể; Người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; Người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế đã phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi người nộp thuế có trụ sở hoặc địa chỉ liên lạc để kiểm tra, xác minh thông tin người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan quản lý thuế; Người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã hoặc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hành nghề; Người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ; Người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư và được chủ đầu tư trực tiếp thanh toán nhưng chưa được thanh toán.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 đã quy định đầy đủ các đối tượng được xử lý nợ (chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, giải thể, phá sản, bị thiên tai, bất khả kháng...) và các điều kiện xử lý, thẩm quyền xử lý nợ. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ 01/7/2020, vì vậy đối với các khoản nợ phát sinh trước ngày 01/7/2020 không được hồi tố để xử lý.
Luật Quản lý thuế hiện hành quy định 3 trường hợp được xóa nợ thuế nhưng phải đáp ứng được điều kiện là phải thực hiện tuần tự các biện pháp cưỡng chế nợ và khoản nợ thuế đủ 10 năm. Hầu hết các khoản nợ hiện nay chưa đủ điều kiện 10 năm nên không được xử lý nợ. Ngoài ra, đối với các trường hợp người nộp thuế đã chết, đã mất tích, giải thể, phá sản, ngừng bỏ hoạt động kinh doanh, thực tế không còn khả năng nộp NSNN nhưng vẫn phải tính tiền phạt và tiền chậm nộp. Số nợ này là nợ ảo, không còn khả năng thu vào NSNN. Luật hiện hành lại không có quy định khoanh nợ.
Đối với các khoản “tiền chậm nộp” theo Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 đến nay chưa có cơ chế xử lý. Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 không có điều khoản chuyển tiếp xử lý số nợ đọng này. Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 cũng không có quy định miễn đối với “tiền chậm nộp”. Do đó, đối với một số khoản tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp thuộc các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng phát sinh tiền chậm nộp chưa được xử lý. Vì vậy, Chính phủ thấy cần báo cáo Quốc hội để có cơ chế xử lý. “Từ tình hình trên, Chính phủ thấy rằng việc báo cáo Quốc hội có biện pháp để xử lý nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để xử lý nợ tồn đọng trước ngày 01/7/2020 mà không còn khả năng thu nộp NSNN” - Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nêu rõ.
Công khai, minh bạch việc xử lý nợ thuế, đảm bảo việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền; giám sát của người dân
Về nội dung của dự thảo Nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh việc báo cáo Quốc hội có biện pháp để xử lý nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để xử lý nợ tồn đọng trước ngày 1/7/2020. Một trong những nguyên tắc của việc xử lý nợ là nhằm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho người nộp thuế, nhưng phải phòng ngừa và ngăn chặn việc lợi dụng chính sách để trục lợi và cố tình chây ỳ, nợ thuế.