Cần đưa đất đai về đúng giá trị thực để giảm bớt gánh nặng cho người dân, các doanh nghiệp
(sav.gov.vn) - Sáng 3/11/2022), tiếp tục chương trình Kỳ họp 4, Quốc hội khóa XV, đại biểu Quốc hội thảo luận ở Tổ về dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Dự thảo Luật Đất đai gồm 16 chương, 245 điều, trong đó giữ nguyên 28 điều; sửa đổi, bổ sung 184 điều; bổ sung mới 41 điều và bãi bỏ 8 điều.
Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) bổ sung 11 chính sách mới
Theo đó, 11 chính sách mới trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) gồm: Quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của Nhà nước; quyền, nghĩa vụ của Công dân đối với đất đai; Hoàn thiện các quy định về các quyền của người sử dụng đất; Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Về thu hồi đất và chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; Về cơ chế, chính sách tài chính, giá đất, điều tiết quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội; Về phát triển quỹ đất, thị trường quyền sử dụng đất; Về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, giải quyết những tồn tại hạn chế trong quản lý đất có nguồn gốc nông, lâm trường; Quy định về quản lý, sử dụng đất đa mục đích; Về chuyển đổi số và cải cách hành chính; Về thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Trong đó, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến về 3 nội dung gồm: Mở rộng hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân lên 15 lần so với hạn mức được giao; mở rộng đối tượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa; quy định về cho phép chuyển nhượng, thế chấp “quyền thuê trong hợp đồng thuê đất trả tiền hàng năm”.
Đặc biệt, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) hoàn thiện quy định về các quyền của người sử dụng đất. Bên cạnh các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định hiện hành, dự thảo Luật đã bổ sung quy định quyền được thế chấp, cho thuê lại quyền thuê đất trong hợp đồng thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm, bán tài sản thuộc sở hữu gắn liền với đất. Dự thảo Luật cũng giải quyết vướng mắc liên quan đến công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất; giấy chứng nhận liên quan đến hộ gia đình sử dụng đất.
Về thu hồi đất và chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Dự thảo Luật đã quy định cụ thể điều kiện, tiêu chí, các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 86) và trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để công khai, minh bạch trong thực thi và giám sát. Đa dạng các hình thức bồi thường bằng đất có cùng mục đích với đất bị thu hồi hoặc bằng tiền, bằng đất khác hoặc bằng nhà ở; giá đất bồi thường theo giá thị trường; tách bạch các khoản bồi thường, các khoản hỗ trợ; công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đi trước một bước khi quyết định thu hồi đất.
Về cơ chế, chính sách tài chính, giá đất, điều tiết quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội: Dự thảo Luật bỏ quy định khung giá đất, quy định cụ thể nguyên tắc định giá đất phù hợp với giá trị thị trường, bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, trung thực, khách quan; bảng giá đất được xây dựng định kỳ hàng năm. Đối với khu vực có bản đồ địa chính số và cơ sở dữ liệu giá đất thì bảng giá đất được xây dựng theo vùng giá trị, thửa đất chuẩn. Quy định các trường hợp áp dụng bảng giá đất, trong đó áp dụng bảng giá để để tính thuế thu nhập khi chuyển quyền sử dụng đất.
Dự thảo Luật mở rộng thành phần Hội đồng thẩm định giá đất với sự tham gia của đại diện Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức tư vấn, chuyên gia về giá đất để đảm bảo tính độc lập, khách quan. Phân cấp thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giá đất cụ thể phù hợp với thẩm quyền của cấp huyện trong giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích...
Hoàn thiện các quy định về miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, bổ sung các trường hợp miễn, giảm theo lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, đối tượng chính sách…
Thiết lập các công cụ kiểm soát quyền lực, khắc phục ách tắc, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong quản lý sử dụng đất đai
Thảo luận về dự án Luật Đất đai (sửa đổi) tại phiên họp Tổ sáng 3/11/2022, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục tập trung rà soát các nút thắt, mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng đất đai, thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Hiến pháp năm 2013 vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) nhằm tạo không gian mới, động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giảm tối đa các thủ tục hành chính. “Cơ quan chủ trì soạn thảo cần phải làm rõ phân cấp phân quyền cho địa phương, thiết lập các công cụ kiểm soát quyền lực, giám sát thực hiện, khắc phục ách tắc, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong quản lý sử dụng đất đai, giảm tình trạng khiếu kiện về đất đai” - Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh.
Cho ý kiến về Chương II của dự thảo Luật - trách nhiệm của Nhà nước, công dân với đất đai, có 18 Điều, nhưng lại dành 16 Điều quy định về trách nhiệm của Nhà nước, chỉ có hai điều là quyền, nghĩa vụ của công dân. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội cho rằng quy định như vậy chưa có sự tương xứng giữa hai chủ thể Nhà nước và công dân, do đó, cần làm rõ vấn đề này.
Góp ý vào Điều 65 dự thảo Luật quy định về đấu thầu dự án có sử dụng đất để lựa chọn nhà đầu tư, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị cần quy định cụ thể hơn các trường hợp này, đặc biệt là việc cho phép các dự án thương mại, khu đô thị được áp dụng đấu thầu có sử dụng đất nếu khu đất thực hiện dự án chưa hoàn thành việc bồi thường, tái định cư, thu hồi đất, chế độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu gắn liền với đất của dự án này. Cần chuẩn hóa quy định về giao đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, tránh xung đột pháp luật, tránh vướng mắc khi triển khai thực hiện.
Về hoàn thiện quy định thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư, cần hoàn thiện các bước quy trình, thủ tục thu hồi đất trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc công khai, dân chủ, khoa học, chặt chẽ, công bằng.
Về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở các Điều 69, 70 dự thảo Luật, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị, cần cụ thể hóa trong Luật các tiêu chí, điều kiện đối với trường hợp nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội, tránh tình trạng lạm dụng. Quy định chi tiết thành phần, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Quy định người dân có quyền lựa chọn hình thức nhận bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong một dự án chỉ áp dụng một hình thức thu hồi đất cho thống nhất.
Về quy định thành lập Quỹ hỗ trợ cho người bị thu hồi đất thuộc đối tượng hạn chế khả năng lao động tại Khoản 3, Điều 96 của dự thảo Luật, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội cho rằng nên cân nhắc theo hướng chỉ quy định nguyên tắc, cơ chế hỗ trợ và giao cho Chính phủ quy định chi tiết về chính sách hỗ trợ cụ thể.
Về quyền, nghĩa vụ người sử dụng đất, cần đánh giá kỹ tác động, xác định mức bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn ở nước ta. “Về mở rộng đối tượng nhận chuyển nhượng đất lúa cho tổ chức kinh tế tập thể, gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp tại Điều 214, đây là nội dung lớn, nhạy cảm, do đó, cần đánh giá kỹ tác động và cần phải lấy ý kiến thêm đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể những nơi trực tiếp xuống người dân để quy định cơ chế, điều kiện chặt chẽ, bảo đảm nông dân có đất để sản xuất, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia nhưng không có thiệt thòi cho người dân” – Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội nêu ý kiến.
Đối với quy định khung giá đất, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cần quy định cụ thể đối tượng nào sẽ bị áp dụng mức thuế cao, đối tượng nào áp dụng mức thuế bình thường; các trường hợp được miễn, giảm thuế; phương án bảo đảm cho người dân thực hiện giao dịch chuyển nhượng bất động sản.
Về mở rộng hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội cho rằng nên mở rộng không quá 15 lần hạn mức, phù hợp với Nghị quyết số 18 của Trung ương và bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, cần đánh giá kỹ tác động, xác định hạn mức bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn ở nước ta.
Đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng đất trong khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai
Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Nguyễn Lâm Thành - Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên quan tâm đến Điều 11 của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định về việc đưa đất lâm nghiệp vào trong nông nghiệp, đại biểu cho rằng sẽ gây rất nhiều phức tạp trong quản lý đất đai, vì không thể dùng đất nông nghiệp để quy chiếu sang các loại đất khác, đề nghị 2 loại đất này cần phải phân tách riêng biệt và trong mỗi loại đất này cũng phải chia nhỏ cụ thể hơn nữa để điều chỉnh các chính sách tương thích.
Góp ý về nội dung này, ĐBQH Trần Chí Cường - Đoàn ĐBQH thành phố Đà Nẵng đề nghị, bên cạnh quy định chia nhỏ cụ thể hơn các loại đất thì cần bổ sung thêm loại đất mang tính chất hỗn hợp lưỡng dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng đất trong khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai. “Hiện nay, người dân đang ở trên đất, mục đích là sử dụng đất ở nhưng do nhu cầu cuộc sống họ kết hợp cả kinh doanh, buôn bán kể cả làm thêm một số phòng cho thuê dịch vụ, cho thuê. Ngay cả các vùng nông thôn cũng đang kết hợp loại hình du lịch homestay trên những thửa đất nông nghiệp mà hiệu quả sản xuất không cao, họ kết hợp tổ chức dịch vụ để khai thác hiệu quả hơn nguồn lực đất đai trong phát triển kinh tế cá nhân mà không có sự phân loại cho loại đất này, không được quy định trong luật dẫn đến người dân sẽ vi phạm” - đại biểu Trần Chí Cường phân tích.
ĐBQH Hoàng Minh Hiếu - Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An nêu ý kiến, đất nông nghiệp hiện có 7 mục và phi nông nghiệp có 11 mục, việc chia đất rất nhỏ như vậy khi cấp quyền sử dụng đất rồi người sử dụng đất sẽ chỉ được sử dụng dưới hình thức đó. Tuy nhiên chia nhỏ thì chi phí tuân thủ cao, khi người dân muốn chuyển đổi thì phải làm thủ tục chuyển đổi mất chi phí thời gian, nguồn lực nhiều. Bên cạnh đó hạn chế sáng tạo của người dân trong sử dụng đất, cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo Luật nên nghiên cứu không nên chia quá nhỏ việc sử dụng đất như thế này. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu, nhiều đại biểu nhận thấy, việc chia nhỏ các loại đất như dự thảo Luật sẽ dẫn đến nhiều khó khăn cho người dân trong sử dụng đất, cũng như quản lý Nhà nước trong xác định giá đất bồi thường giải phóng mặt bằng.
ĐBQH Đàng Thị Mỹ Hương - Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Thuận cho rằng, khi thu hồi đất, chính quyền địa phương cần đảm bảo cuộc sống, điều kiện sống của người dân nhưng cũng phải là được sinh sống tại khu vực bị thu hồi đất, chứ không nên di duyển người dân đến nơi quá xa nơi ở cũ. Ngoài ra, việc thu hồi đất phải đảm bảo công bằng, khả thi; quy định rõ thu hồi đất để thực hiện các dự án đối tác công tư nhằm khắc phục lợi ích nhóm cũng như cần xây dựng cơ chế đảm bảo kiểm tra, giám sát các dự án. Bên cạnh đó, cần có phương pháp và cách tính giá đất để đảm bảo thông suốt như đảm bảo cho địa phương định giá đất, người dân có ý kiến vào việc định giá đất. Điều này cũng góp phần giảm khiếu nại, khiếu kiện cho người dân khi giá đất chưa được đền bù thỏa đáng.
Về thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng (Điều 86) một số ý kiến của các ĐBQH cho rằng, dự thảo Luật chưa cụ thể, rành rọt các điều kiện, tiêu chí, phân biệt rõ giữa dự án nào mục đích phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng và dự náo nào mục đích kinh tế đơn thuần. Do vậy, để minh bạch trong thu hồi đất, tránh lạm dụng thu hồi đất tràn lan và khiếu nại, khiếu kiện, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người có đất thu hồi cần rà soát, quy định cụ thể rõ ràng hơn.
Tại Điều 91, cần xem xét lại đối tượng nhận thông báo và chấp hành quyết định thu hồi đất, nếu chỉ thông báo thu hồi đất cho 1 đối tượng là người có đất bị thu hồi thì chưa đầy đủ vì ngoài người có đất bị thu hồi còn có đối tượng người có tài sản gắn liền với đất trong trường hợp chủ sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất. Do đó, cần bổ thêm đối tượng người có tài sản gắn liền với đất và các chủ thể khác có liên quan đến đất bị thu hồi. Điều 91 cũng quy định, trước khi ban hành quyết định thu hồi đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải gửi văn bản thông báo thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi biết chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, các ĐBQH đề nghị nên nên rút ngắn thời gian thông báo xuống chậm nhất là 30 ngày.
Về hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình cá nhân, Điều 181 dự thảo Luật đã nâng hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình cá nhân từ 10 lần lên không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp đồng thời giao Hội đồng nhân dân tỉnh trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường và khả năng đất đai để quy định hạn mức cho phù hợp. Các ĐBQH đánh giá đây là quy định khá linh hoạt, tuy vậy cũng cần xem xét vì nếu quy định như dự thảo Luật sẽ gây khó khăn cho vấn đề tích tụ đất trong sản xuất nông nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường giai đoạn hiện nay và chưa tạo được cơ chế đủ mạnh thu hút nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp. Do vậy, cần mở rộng thêm hạn mức này lên 20 đến 25 lần hạn mức giao đất nông nghiệp nhằm thu hút các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư vào sản xuất nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 18 đề ra.
Cơ chế tính giá đất bồi thường phải sát giá thị trường
Theo ĐBQH Lê Hữu Trí- Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã giao cho Chính phủ quy định chi tiết điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, ngoài một số trường hợp mà Luật đã đề cập. Theo ông Lê Hữu Trí, việc giao Chính phủ quy định chưa phù hợp, thay vào đó dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) nên quy định cụ thể luôn để tránh việc lạm dụng việc thu hồi đất tại các địa phương, đặc biệt là đối với đất nông nghiệp, đảm bảo quyền lợi của người nông dân. Tại Khoản 2, Điều 97 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định về guyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Theo đó, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, nội dung này cũng đã được đề cập tại Luật cũ cũng như các Văn kiện của Đảng. Thực tế cho thấy giá đất bồi thường thường là thấp hơn với các khoản hỗ trợ, bồi thường, chưa bảo đảm được sinh kế lâu dài cho người bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, phần lớn chưa quan tâm đúng mức đến việc tạo việc làm hoặc chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi trong độ tuổi lao động.
Ông Lê Hữu Trí nêu ý kiến, người dân khi bị thu hồi đất thì dẫn đến mất tư liệu sản xuất, mất việc làm, phần lớn lại không có cơ hội và không đủ điều kiện để tìm được việc làm mới, do vậy dễ phát sinh khiếu kiện... “Cần có chính sách và thể chế đầy đủ các nội dung bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của nhà đầu tư trong việc thu hồi đất, mặc dù đây là bài toán khó. Vì vậy cơ chế tính giá đất bồi thường phải sát giá thị trường, bảo đảm tính đúng, tính đủ cho người bị thu hồi” - ông Lê Hữu Trí đề xuất.
Góp ý về nội dung đền bù tái định cư, giải quyết tranh chấp đất đai, tích tụ ruộng đất của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), ĐBQH Lương Quốc Đoàn – Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang cho rằng chênh lệch địa tô là một trong những vấn đề bức xúc khá lớn, đặc biệt là đối với người dân trong diện và bị thu hồi đất trong quá trình phát triển xây dựng các đô thị. Chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư có những điểm không nhất quán dẫn đến chênh lệch, nhiều vùng tái định cư không bảo đảm đời sống cho người dân; việc đền bù, hỗ trợ để người dân có ở nơi ở mới tương đương hoặc tốt hơn nơi ở cũ là rất khó xác định. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo Luật quan tâm cụ thể đến khảo sát, đánh giá tạo sinh kế cho những người mà bị mất đất, đặc biệt là trong sản xuất.
ĐBQH, PGS Phạm Khánh Phong Lan - Đoàn ĐBQH thành phố Hồ Chí Minh nêu ý kiến, thực tế chứng minh đa số vụ khiếu kiện, ảnh hưởng an ninh, trật tự xã hội, làm mất niềm tin của người dân đều do thu hồi đất làm kinh tế xã hội. Trong đó, khiếu kiện của người dân bị thu hồi đất có nguyên nhân từ giá đất tăng nhanh. Nhà nước thu hồi đất thì đền bù giá thấp, khi dự án xây xong, giá đất khu đó lại lên rất cao. Người bị thu hồi đất chắc chắn sẽ rất xót xa. Đề nghị Nhà nước chỉ thu hồi đất với các dự án phục vụ mục đích quốc phòng an ninh, đối với các dự án thu hồi đất làm kinh tế - xã hội, Nhà nước chỉ nên quy định theo hướng thuận mua vừa bán giữa doanh nghiệp và người dân. Nhà nước thu hồi đất, cần đền bù theo giá thị trường để người dân thấy thỏa mãn, tránh phát sinh các vấn đề về sau. "Nếu tiền đền bù thu hồi đất không xứng đáng với giá trị mảnh đất thì sự thịnh vượng khi đất nước phát triển không được chia sẻ với người dân, dự thảo luật cần thiết kế để tiến tới một xã hội công bằng, người dân bị mất mát ít nhất” - Bà Phạm Khánh Phong Lan đề nghị.
ĐBQH, PGS Trần Hoàng Ngân, Đoàn ĐBQH thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Nhà nước hạn chế tối đa thu hồi đất phát triển kinh tế - xã hội, thay bằng cơ chế doanh nghiệp thương lượng với người dân. Cơ quan soạn thảo Luật cần rà soát, quy định cụ thể tiêu chí các trường hợp Nhà nước thu hồi đất phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, để đảm bảo phù hợp với Hiến pháp và Nghị quyết 18 Trung ương. “Rất khó làm rõ khái niệm thu hồi đất phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Dự thảo Luật liệt kê hàng loạt dự án được thu hồi đất như xây khu đô thị, nhà ở thương mại, cải tạo chung cư cũ..., nhưng sẽ có nhiều khó khăn khi thực thi. Nếu cần thiết phải thu hồi đất với các dự án kinh tế - xã hội thì chỉ xem xét với đất nông nghiệp, hạn chế thu hồi đất phi nông nghiệp, đất ở của dân” - ông Trần Hoàng Ngân nêu ý kiến.
ĐBQH Trần Quốc Tuấn - Đoàn ĐBQH tỉnh Trà Vinh đề nghị cơ quan soạn thảo Luật cân nhắc việc quy định thu hồi đất để làm nhà ở thương mại vì mục tiêu đầu tiên mà chủ đầu tư hướng tới là lợi nhuận. Nếu quy định như trong dự thảo thì có nguy cơ dẫn đến doanh nghiệp lợi dụng, kéo theo khiếu nại, khiếu kiện. Cần quy định theo hướng tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp. Các dự án có nguồn vốn tư nhân phải đánh giá tác động về mặt xã hội khi thu hồi đất của người dân, đảm bảo minh bạch, tránh lạm dụng, gây bức xúc.
Ông Trần Quốc Tuấn đề nghị dự thảo Luật quy định rõ điều kiện, tiêu chí thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội đất nước, tránh trường hợp hôm nay thu hồi đất của người dân để xây chợ dân sinh, nhưng ngày mai trong khu chợ lại mọc ra nhà, phố nằm trong chợ
Thảo luận về vấn đề này, nhiều ĐBQH đề nghị dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cần quy định cụ thể các tiêu chí xác định giá đất theo thị trường; bổ sung quy định về phương án ổn định nghề nghiệp cho người bị thu hồi đất theo hướng nâng cao hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm đảm bảo bằng với tài chính, mức sống của người có đất nông nghiệp trước khi bị thu hồi; quy định hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng tại khu tái định cư để bảo đảm ổn định chỗ ở cho người có đất bị thu hồi; quy định rõ các nguyên tắc được tái định cư, thu hồi đất khi dự án tái định cư đã hoàn thành hay chưa hoàn thành, nếu dự án tái định cư chưa hoàn thành được thu hồi đó không?
Các ĐBQH đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, bảo đảm cụ thể hóa tối đa, đầy đủ các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 18 cũng như các Nghị quyết, kết luận khác của Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có liên quan trong lĩnh vực đất đai; bảo đảm sự phù hợp trong quy định về trường hợp thu hồi đất giữa dự thảo Luật và Hiến pháp; rà soát sự tương thích giữa dự án Luật Đất đai (sửa đổi) với các dự án Luật khác đang được Quốc hội xem xét, cho ý kiến và một số luật liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất; tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số, trên cơ sở đó, sửa đổi, bổ sung các quy định trong dự thảo Luật, bảo đảm tính khả thi, phù hợp thực tiễn.
Bên cạnh đó, một số ý kiến ĐBQH đề nghị rà soát thận trọng, đặc biệt là về nguyên tắc áp dụng Luật; quy định thống nhất, đồng bộ giữa các khái niệm giao đất, giao rừng, cho thuê đất, cho thuê rừng; chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng rừng và rộng hơn là cần rà soát kỹ lưỡng đối với những quy định liên quan đến rừng phòng hộ, rừng sản xuất, rừng đặc đụng để đạt được sự thống nhất cao với các quy định tại Luật Lâm nghiệp; nghiên cứu bổ sung khái niệm "đất thổ cư"./.