Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Viễn thông (sửa đổi)

(sav.gov.vn) - Tiếp tục chương trình Phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 4/2023, chiều 12/4/2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến về dự án Luật Viễn thông (sửa đổi). Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì phiên họp. Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung phiên họp.  

Trình bày Tờ trình dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), Thứ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông (TTTT) Phạm Đức Long cho biết, mục đích xây dựng Luật nhằm thể chế hóa đầy đủ, đúng chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước trong hoạt động viễn thông, phát triển hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác tạo nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số; huy động các thành phần kinh tế có đủ năng lực tham gia xây dựng phát triển hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác phục vụ cho chuyển đổi số quốc gia; khắc phục những vấn đề vướng mắc về thể chế, lỗ hổng chính sách, bất cập trong các quy định của Luật Viễn thông 2009 và các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động viễn thông…
 
Dự thảo luật đưa ra các quy định quản lý dịch vụ trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây theo nguyên tắc: Phân loại dịch vụ trung tâm dữ liệu; dịch vụ điện toán đám mây là dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng trên cơ sở tham khảo định nghĩa dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng của WTO, tham khảo cách phân loại dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng của một số nước; quản lý các dịch vụ này theo pháp luật chung về viễn thông; quản lý bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
 
Dự thảo Luật không khống chế tỷ lệ vốn góp với nhà đầu tư nước ngoài để phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam hiện nay, định hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây theo Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia. Để đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cho người sử dụng, Nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật về hạ tầng, chất lượng dịch vụ, an toàn thông tin, an ninh mạng... và các quy định về bảo vệ dữ liệu theo Luật Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng và pháp luật có liên quan…
 
Dự thảo Luật bổ sung quy định quản lý việc cung cấp dịch vụ viễn thông (trong đó có dịch vụ vệ tinh) xuyên biên giới vào Việt Nam theo nguyên tắc: Nội luật hóa cam kết quốc tế, việc cung cấp dịch vụ viễn thông xuyên biên giới đến người sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam phải thông qua thỏa thuận thương mại với doanh nghiệp viễn thông Việt Nam; đảm bảo an toàn, an ninh khi cung cấp dịch vụ viễn thông xuyên biên giới thông qua các yêu cầu kỹ thuật. 
 
Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định quản lý hoạt động bán buôn trong viễn thông; đưa ra các quy định quản lý dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet trong viễn thông…
 
Thay mặt cơ quan thẩm tra dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KHCN&MT) của Quốc hội Lê Quang Huy khẳng định: Thường trực Ủy ban tán thành với sự cần thiết phải sửa đổi dự án Luật với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Các nội dung của dự thảo Luật cơ bản phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. 

Ủy ban KHCN&MT đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo, bổ sung thêm thông tin vào trong hồ sơ trình để làm nổi bật được sự cần thiết phải sửa đổi Luật Viễn thông một cách toàn diện. Hồ sơ dự án Luật cơ bản đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 dự kiến vào tháng 5/2023.

Về cơ bản, Thường trực Ủy ban KHCN&MT tán thành với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật đối với dịch vụ : Trung tâm dữ liệu; điện toán đám mây; dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet (OTT- Over The Top) vì phù hợp với xu hướng phát triển của viễn thông trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ và xu hướng hội tụ trong lĩnh vực này ngày càng trở nên rõ ràng. Một số dịch vụ hoạt động trên nền tảng viễn thông tuy mới xuất hiện nhưng cũng cần có pháp luật điều chỉnh ở mức độ nhất định với phương thức phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý vừa tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này.
 
Tuy nhiên, đề nghị cân nhắc thêm về việc mở rộng phạm vi điều chỉnh và các quy định có liên quan trong dự thảo Luật đối với những nội dung mở rộng này, tránh sự trùng lặp, chồng chéo. Đồng thời, cần nghiên cứu thiết kế quy định trong dự thảo Luật đối với 03 loại dịch vụ mới nêu trên theo hướng mở, mang tính nguyên tắc để phù hợp với xu thế thay đổi của các dịch vụ mới và thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc khuyến khích đổi mới sáng tạo đối với các dịch vụ mới này.

Về quản lý dịch vụ OTT viễn thông, Thường trực KHCN&MT đề nghị nghiên cứu chỉnh lý các quy định nêu trên để bảo đảm chặt chẽ, khả thi, phù hợp; rà soát việc quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ OTT cần gắn với quyền lợi của các doanh nghiệp này.
 
Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT đề nghị cân nhắc, chỉ nên Luật hóa những nội dung đã được đồng thuận, đối với những nội dung chưa có sự thống nhất, chỉ nên quy định một số nội dung mang tính nguyên tắc trong dự thảo Luật và sẽ được cụ thể hóa trong văn bản hướng dẫn để bảo đảm tính linh hoạt trong thực tế.
 
Về Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, Thường trực Ủy ban KHCN&MT đề nghị nên tiếp tục duy trì Quỹ theo như đề nghị tại Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, dự thảo Luật cần cân nhắc để Luật hóa các nội dung đã được quy định tại các quyết định của Thủ tướng Chính phủ và triển khai thực hiện ổn định trong thời gian qua liên quan đến nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của Quỹ để bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, cụ thể và tăng tính hiệu quả. Các quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ cần rà soát, hoàn thiện để phù hợp với mục tiêu của Quỹ là hỗ trợ thực hiện chính sách của Nhà nước về cung cấp dịch vụ viễn thông “công ích” và pháp luật về ngân sách nhà nước. 
 
Về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông, qua nghiên cứu, khảo sát, Thường trực Ủy ban KHCN&MT nhận thấy, việc kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông đang gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc từ khâu quy hoạch cho đến tổ chức thực hiện. Mặc dù có văn bản hướng dẫn về cơ chế, nguyên tắc kiểm soát giá và phương pháp xác định giá thuê công trình hạ tầng kỹ thuật sử dụng chung nhưng nội dung chưa được rõ ràng và gây nhiều tranh cãi khi áp dụng trên thực tế. Hơn nữa, các quy định này hiện nay không còn phù hợp tình trạng hạ tầng thụ động dùng chung, gây vướng mắc giữa các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp nắm giữ cơ sở hạ tầng viễn thông không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác tham gia sử dụng chung; có thể liên tục tăng giá mà không phải thông qua thẩm định, xác nhận của các cơ quan chuyên ngành về viễn thông. Do đó, một số ý kiến đề nghị xem xét bổ sung quy định quy trình phê duyệt khi doanh nghiệp sở hữu hạ tầng dùng chung thay đổi đơn giá cho thuê (tăng so với đơn giá hiện tại) cần phải được sự phê duyệt của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
 
Góp ý tại phiên họp, các ý kiến đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng về hồ sơ dự án Luật Viễn thông (sửa đổi); đồng tình với nhiều nội dung thẩm tra của Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội với nhiều đánh giá sâu sắc, trong đó nêu nhiều nội dung tiếp tục cần nghiên cứu.
 
Các đại biểu đã tập trung cho ý kiến về: Phạm vi điều chỉnh; việc cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây và cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam; Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam; kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông; sự phù hợp trong hệ thống pháp luật giữa Luật Viễn thông (sửa đổi) và các luật liên quan như Luật an toàn thông tin mạng và Luật An ninh mạng, Luật Thương mại, Luật Canh tranh, Luật Căn cước công dân (sửa đổi)…; chia sẻ, cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan chuyên môn; quyền của các doanh nghiệp viễn thông; chính sách Nhà nước về viễn thông; Đảm bảo bí mật thông tin.
 
Một số ý kiến cũng cho rằng, cần bổ sung cụ thể hơn về trách nhiệm quản lý Nhà nước của Chính phủ về viễn thông; quy định cụ thể hơn về quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và khách hàng thụ hưởng, nhất là trong các vấn đề liên quan đến an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ bí mật đời tư cá nhân; rà soát cập nhật những quy định đã thực hiện ổn định để đưa vào dự thảo Luật và tránh việc giao cho Chính phủ quá nhiều điều, khoản hướng dẫn; nghiên cứu, rà soát các nội dung để đảm bảo tương thích với các cam kết quốc tế, quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật đầu tư, kinh doanh.
 
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, đây là một dự án Luật rất quan trọng để thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cách mạng công nghiệp lần thứ tư và vấn đề chuyển đổi số quốc gia. Đây cũng là dự án Luật quan trọng trong chuỗi từ Luật Tần số vô tuyến điện đến Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) đến nay là Luật Viễn thông.
 
Cho ý kiến về phạm vi điều chỉnh, Chủ tịch Quốc hội đề nghị cần nghiên cứu làm rõ hơn một nội hàm của hoạt động viễn thông để bổ sung các quy định phù hợp trong dự thảo Luật; nghiên cứu thấu đáo hơn quy định về hoạt động viễn thông bao gồm cả quyền tham gia hoạt động viễn thông; quyền được đảm bảo an toàn viễn thông cho cả bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ; vấn đề cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động viễn thông, tạo thuận lợi thương mại và giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp, cho người sử dụng dịch vụ. Đồng thời, rà soát để đảm bảo tương thích giữa dự thảo Luật với điều ước quốc tế; rà soát rà soát để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước.
 
Liên quan đến nội dung còn ý kiến khác nhau về chính sách kinh doanh trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây và dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet, Chủ tịch Quốc hội cho rằng việc bổ sung các quy định này là cần thiết. Tuy nhiên còn ý kiến khác nhau nên cần phải tiếp tục cân nhắc kỹ, đánh giá kỹ tác động chính sách để đưa các dịch vụ này vào trong Luật và xác định mức độ điều chỉnh cho phù hợp.
 
Về quy định cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội lưu ý nếu quy định nội dung này phải bảo đảm minh bạch, tránh tình trạng giải thích tùy tiện, làm tăng chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp Việt Nam, gián tiếp cũng làm tăng chi phí đối với các doanh nghiệp nước ngoài. 
 
Về các hoạt động mà bên cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội đề nghị nghiên cứu để luật hóa những quy định có trong Thông tư 38/2016/TT-TTTT của Bộ TTTT liên quan đến nội dung này để đảm bảo minh bạch, ổn định.
 
Đề nghị nghiên cứu thêm về quy định trường hợp có thu cước hoặc không thu cước sử dụng internet, nhưng có số lượng người sử dụng hoặc phát sinh lưu lượng tại thị trường Việt Nam vượt mức ngưỡng theo quy định thì phải thông qua thỏa thuận thương mại; quy định việc cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu dịch vụ điện toán đám mây qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam phải thông qua thỏa thuận thương mại với doanh nghiệp viễn thông Việt Nam hoặc đặt Văn phòng đại diện tại Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội đề nghị rà soát kỹ lưỡng về căn cứu pháp lý và tính khả thi của các quy định này để giải quyết được những vướng mắc về pháp lý và cam kết quốc tế, tính khả thi…
 
Phát biểu tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Mạnh Hùng cảm ơn ý kiến của Chủ tịch Quốc hội, các thành viên UBTVQH , đồng thời cho biết các ý kiến đã được tổng hợp, sẽ được tiếp thu, giải trình đầy đủ để tiếp tục hoàn thiện dự án Luật Viễn thông (sửa đổi). 

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, vấn đề quan trọng trong sửa đổi Luật Viễn thông là cân đối quản lý và phát triển, cân bằng phát triển và bền vững, nhất là trong bổi cảnh từ năm 2010 đến nay đã có rất nhiều thay đổi trong lĩnh vực này. Những thay đổi lớn và nhanh chóng trên đòi hỏi phải có thể chế mới, nhất là các quy định cho phép sự linh hoạt của Chính phủ. Đó là lý do sửa đổi Luật Viễn thông. “Bộ TTTT mong muốn có một luật về hạ tầng số, nhưng do chưa thật chín, nên dừng lại ở mức sửa đổi Luật Viễn thông. Nhưng các vấn đề của hạ tầng số đã rõ thì đưa vào Luật Viễn thông (sửa đổi)” – Bộ trưởng chia sẻ.
 
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải kết luận nội dung phiên họp
 
Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ, UBTVQH đánh giá cao quá trình chuẩn bị công phu sửa đổi Luật Viễn thông của Chính phủ và việc thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Chủ tịch Quốc hội, ý kiến của UBTVQH và các cơ quan thẩm tra.
 
UBTVQH lưu ý tập trung đánh giá kỹ, phù hợp sự cần thiết phải sửa đổi Luật, nhấn mạnh việc sửa đổi toàn diện Luật là yêu cầu đặt ra do khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, xu hướng phát triển của viễn thông trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, xu hướng hội tụ, giao thoa giữa viễn thông công nghệ thông tin, công nghệ số tự động hóa, phát thanh truyền hình điện ảnh ngày càng mở rộng. 
 
Nhanh chóng bổ sung đánh giá tác động lấy ý kiến các Bộ, ngành đối với các chính sách mới, bổ trợ, bổ sung, chỉnh sửa các khái niệm giải thích, từ ngữ cho đầy đủ, phù hợp và lưu ý kiến của các hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tiếp tục rà soát để thể chế hóa đầy đủ các chủ trương lớn của Đảng, đặc biệt là nội dung Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương.
 
Việc sửa đổi nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập; sửa đổi các quy định không còn phù hợp với thực tiễn và bổ sung các chính sách mới để hoàn thiện, thúc đẩy phát triển các dịch vụ viễn thông và hạ tầng viễn thông, mở rộng không gian phát triển cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ số, kinh doanh số và trong xã hội số; bảo đảm đồng bộ với các luật về công nghệ thông tin, về tần số vô tuyến điện, giao dịch điện tử và các Luật khác.
 
Rà soát phạm vi đối tượng điều chỉnh của dự án Luật để đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tình hình mới, nhưng không gây mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật, không chồng chéo đối với các lĩnh vực khác, nhất là lĩnh vực công nghệ thông tin. Việc mở rộng cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tính toán mức độ quản lý phù hợp, đảm bảo chặt chẽ khả thi, hạn chế việc tăng chi phí tuân thủ của doanh nghiệp, hạn chế ảnh hưởng đến lợi ích và các dịch vụ thuộc lĩnh vực mới mang lại phù hợp với các cam kết quốc tế và không gây hệ lụy trong phát triển của xã hội và hội nhập đất nước. Lưu ý các ý kiến của cơ quan thẩm tra việc quản lý dịch vụ OTT viễn thông, về cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây và cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới; tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng những vấn đề liên quan đến quyền được tham gia và đảm bảo về viễn thông; hoàn thiện quy định về các quy hoạch đảm bảo phù hợp với Luật Quy hoạch…
 
Đề nghị rà soát quy định về cấp giấy phép viễn thông để giảm bớt thủ tục hành chính, quy định rõ thẩm quyền cấp phép trong luật và rà soát thời hạn cấp phép, gia hạn giấy phép để đảm bảo công bằng. 
 
Đánh giá sự cần thiết, hiệu quả hoạt động của Quỹ Viễn thông công ích trong thời gian qua, chỉ quy định trong luật về Quỹ khi có đầy đủ cơ sở, căn cứ thuyết phục, thống nhất với các luật chuyên ngành; nếu cần thiết phải quy định về quỹ trong luật cần quy định cụ thể, rõ ràng về nguyên tắc hoạt động, nguồn thu, mức thu, nhiệm vụ chi và đồng bộ, thống nhất với Luật Ngân sách Nhà nước, Luật phí và lệ phí. 
 
Rà soát các quy định về công trình viễn thông, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp viễn thông để đảm bảo tương thích phù hợp với quy định của Luật Đất đai, Luật Quản lý sử dụng tài sản Nhà nước. Hoàn thiện các quy định về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông, không để xảy ra tình trạng độc quyền, đẩy giá thuê công trình hạ tầng, nâng cao bất hợp lý.
 
Quy định chặt chẽ việc bảo mật thông tin cá nhân, ràng buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp viễn thông trong việc trao đổi, cung cấp thông tin liên quan đến người sử dụng dịch vụ viễn thông. Hoàn thiện các quy định về quản lý Nhà nước, nội dung quản lý Nhà nước, quyền hạn trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị để đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước./.
 
Ngọc Bích