Kết quả kiểm toán Chuyên đề quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022 tại tỉnh Kiên Giang

(sav.gov.vn) – Kiểm toán nhà nước (KTNN) vừa hoàn thành cuộc kiểm toán Chuyên đề việc quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022 tại tỉnh Kiên Giang. KTNN kiến nghị UBND tỉnh rà soát, xử lý các trường hợp chưa nộp tiền hoặc đã nộp tiền trồng rừng thay thế nhưng chưa trồng rừng trên địa bàn tỉnh đảm bảo đúng quy định.

Theo báo cáo kiểm toán, năm 2023, Quỹ đã thực hiện tốt chức năng quản lý thu, chi tiền trồng rừng thay thế do chuyển mục đích sử dụng đất rừng sang mục đích khác góp phần phát huy hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên công tác quản lý thu và sử dụng Quỹ tại địa phương còn một số tồn tại, hạn chế.

Chậm nộp tiền trồng rừng thay thế, nhiều dự án chưa bố trí được đất để trồng rừng

Báo cáo kiểm toán nêu rõ, Đề án thực hiện chính sách chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng do UBND tỉnh Kiên Giang ban hành tại Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 14/01/2021 chưa xác định các đối tượng phải trả dịch vụ môi trường rừng là: các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nguồn nước phục vụ cho sản xuất công nghiệp; các cơ sở nuôi trồng thủy sản phải chi trả tiền dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn, con giống tự nhiên, nguồn nước và các yếu tố từ môi trường, hệ sinh thái rừng cho nuôi trồng thủy sản.

Thêm vào đó, có 22 chủ đầu tư nộp tiền trồng rừng thay thế chậm so với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 4 Thông tư số 13/2019/TT-BNNPTNT ngày 25/10/2019 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn; 05/40 chủ đầu tư chưa nộp tiền trồng rừng thay thế số tiền 21 tỷ đồng.

Tính đến ngày 30/6/2023, số tiền trồng rừng thay thế còn đang tồn tại Quỹ là 135,2 tỷ đồng, trong đó có 11 dự án đã được các chủ đầu tư nộp tiền quá thời hạn 12 tháng nhưng chưa bố trí được đất để trồng rừng với số tiền 37,4 tỷ đồng.
Quyết định số 1054/QĐ-UBND ngày 08/5/2019 của UBND tỉnh Kiên Giang phê duyệt phương án trồng rừng thay thế để thực hiện Dự án Khu du lịch sinh thái Green Hill của Công ty TNHH Hải An Huy với diện tích rừng chuyển mục đích (diện tích 71,1 ha) là rừng tự nhiên, không phù hợp khoản 2 Điều 14 Luật Lâm nghiệp 2017 “Không chuyến mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác, trừ dự ản quan trọng quôc gia; dự án phục vụ quôc phòng, an ninh quốc gia; dự án cấp thiết khác được Chính phủ phê duyệt”.
           
Đáng chú ý, việc cho thuê rừng, cho thuê môi trường rừng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí tại Vườn Quốc gia Phú Quốc còn nhiều sai sót, cụ thể:

Có 07 hợp đồng cho thuê rừng phòng hộ với mục đích bảo vệ, chăm sóc rừng kết hợp thực hiện các dự án du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí nhưng thanh toán 01 lần cho cả thời gian thuê 50 năm (06 hợp đồng) và thanh toán theo giai đoạn 10 năm 1 lần (01 hợp đồng) không đúng quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật Bảo vệ và phát triển rừng; 01 hợp đồng thuê môi trường rừng đặc dụng để thực hiện dự án vườn thú thanh toán tiền thuê theo giai đoạn 10 năm 01 lần không đúng quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Bảo vệ và phát triển rừng.

Hợp đồng số 245/HĐ-TR ngày 01/10/2013 ký với Công ty TNHH MTV Phú Quốc Trần Gia, cho thuê rừng phòng hộ thời gian 49 năm, thanh toán tiền hàng năm nhưng chưa thanh toán tiền thuê rừng từ khi ký hợp đồng đến nay.

Hợp đồng số 157A/HĐ-BQLRPH ngày 02/12/2019 ký với Công ty TNHH Khu nghỉ dưỡng Gầm Ghì La Veranda cho thuê rừng để thực hiện dự án Khu du lịch sinh thái Gầm Ghì Resort, có tiêu đề và nội dung hợp đồng là cho thuê rừng nhưng thời gian và mức giá cho thuê thì căn cứ vào khoản 6 Điều 23 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định về cho thuê môi trường rừng.

Hợp đồng số 01/HĐThR-VQG ngày 07/10/2016 ký với Công ty cổ phần Đầu tư và phát triển du lịch Phú Quốc cho thuê môi trường rừng đặc dụng để thực hiện dự án Vườn thú Vinpearl Safari Phú Quốc áp dụng giá để tính tiền cho thuê môi trường rừng theo Quyết định số 10/2016/QĐ-UBND ngày 15/3/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang. Trong khi đó, Quyết định số 10/2016/QĐ-UBND quy định về giá các loại rừng và giá cho thuê rừng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang được ban hành căn cứ vào Nghị định số 48/2007/NĐ-CP ngày 28/3/2007 của Chính phủ về nguyên tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng và Thông tư liên tịch số 65/2008/TTLT-BNN-BTC ngày 26/5/2008 của liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 48/2007/NĐ-CP; tại các văn bản này không có quy định liên quan đến tính giá cho thuê mỏi trường rừng. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 3 Quyết định số 10/2016/QĐ-UBND quy định áp dụng để tính tiền thuê rừng (hay còn gọi là thuê môi trường rừng); từ đó Vườn Quốc gia Phú Quốc đã áp dụng quy định này để tính tiền cho thuê môi trường rừng đặc dụng là không phù hợp do theo quy định tại khoản 21, 22 Điều 2 Luật Lâm nghiệp thì việc cho thuê rừng và cho thuê môi trường rừng là 02 hoạt động khác nhau.

Tại Ban Quản lý rừng Kiên Giang đã ký 04 hợp đồng cho thuê rừng phòng hộ (03 hợp đồng ký năm 2011 và 01 hợp đồng ký năm 2012), theo hợp đồng thì tiền thuê được thanh toán hàng năm nhưng đến nay Ban Quản lý rừng Kiên Giang chưa thực hiện thu tiền cho thuê theo Quyết định số 10/QĐ-UBND ngày 15/3/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang.

Báo cáo kiểm toán cũng chỉ rõ đến thời điểm hiện nay, tại Vườn Quốc gia Phú Quốc đã thu tiền cho thuê đối với 08/10 hợp đồng cho thuê rừng, cho thuê môi trường rừng đã ký với số tiền 9,8 tỷ đôngg, số tiền này còn đang tồn trên tài khoản của Vườn Quốc gia Phú Quốc mở tại Ngân hàng thương mại BIDV chưa được xử lý do hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc quản lý, sử dụng tiền cho thuê môi trường rừng để kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí theo quy định khoản 6 Điều 23 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ.
           
Sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc quản lý và sử dụng tiền cho thuê môi trường rừng

Từ kết quả kiểm toán, KTNN đề nghị UBND tỉnh tổ chức rà soát, điều chỉnh, bổ sung đối tượng phải nộp tiền dịch vụ môi trường rừng tại Đề án thực hiện chính sách chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng ban hành tại Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 14/01/2021. Cụ thể, rà soát bổ sung đôi tượng là các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nguồn nước phục vụ cho sản xuất công nghiệp trên địa bàn và các cơ sở nuôi trồng thủy sản phải chi trả tiền dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn, con giống tự nhiên, nguồn nước và các yếu tố từ môi trường, hệ sinh thái rừng cho nuôi trồng thủy sản thuộc các đối tượng phải nộp tiền dịch vụ môi trường rừng theo quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 57 Nghị định 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ.

KTNN cũng kiến nghị UBND tỉnh rà soát các quyết định phê duyệt phương án trồng rừng thay thế do chuyển mục đích sử dụng rừng đối với các dự án có nguồn gốc là rừng tự nhiên không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Lâm nghiệp năm 2017 và có phương án xử lý đối với các trường hợp chưa nộp tiền hoặc đã nộp tiền trồng rừng thay thế nhưng chưa trồng rừng, đang còn tồn tại Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng của tỉnh Kiên Giang đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Tổ chức kiểm tra việc cho thuê rừng, cho thuê môi trường rừng để kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí tại Vườn Quốc gia Phú Quốc và Ban Quản lý rừng Kiên Giang về các nội dung: Căn cứ, thủ tục lập hợp đồng cho thuê, thời gian thanh toán tiền thuê, áp dụng mức thu tiền cho thuê, quản lý thu tiền cho thuê và xử lý theo quy định của pháp luật.

Sửa đổi phạm vi áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 3 Quyết định số 10/2016/QĐ-UBND ngày 15/3/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang ban hành quy định về giá các loại rừng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Đồng thời, KTNN kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn việc quản lý và sử dụng tiền cho thuê môi trường rừng đặc dụng, cho thuê môi trường rừng phòng hộ và cho thuê môi trường rừng sản xuất để kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí được quy định tại khoản 6 Điêu 14, khoản 6 Điêu 23 và khoản 3 Điêu 32 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ.

Hà Linh