Bộ Giáo dục và Đào tạo: Nhiều hạn chế, thiếu sót trong quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ

(sav.gov.vn) – Kiểm toán nhà nước (KTNN) vừa hoàn thành cuộc kiểm toán chuyên đề việc quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ (KH&CN) giai đoạn 2020 – 2022 tại Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT). Kết quả kiểm toán cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư cho KH&CN của Bộ còn nhiều hạn chế, thiếu sót.

Nhiều sai sót trong công tác lập, phân bổ dự toán nguồn kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ

Theo kết quả kiểm toán vừa được công bố, tổng kinh phí đầu tư cho lĩnh vực KH&CN giai đoạn 2020-2022 của Bộ GDĐT là 708,1 tỷ đồng cơ bản được phân bổ, sử dụng cho các nhiệm vụ KH&CN được giao, trong đó năm 2020 là 259,3 tỷ đồng, năm 2021 là 251,9 tỷ đồng, năm 2022 là 196,7 tỷ đồng. Số nhiệm vụ KH&CN thực hiện là 1.156 nhiệm vụ, trong đó có 272 nhiệm vụ chuyển tiếp và 884 nhiệm vụ mở mới (305 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, 819 nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, 10 nhiệm vụ triên khai thực nghiệm và 22 nhiệm vụ nghiên cứu khác). Nhiều kết quả nghiên cứu là sản phẩm khoa học đã được đăng trên các Báo, tạp chí khoa học quốc tế và được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và giảng viên nghiên cứu, phục vụ cho công tác học tập và đào tạo.

Tuy nhiên, kết quả kiểm toán cho thấy, giai đoạn 2020-2022, Bộ đã lập dự toán đối với một số đề tài, nhiệm vụ mở mới khi chưa được thấm định và phê duyệt dự toán kinh phí của cấp có thẩm quyền, chưa đúng với hướng dẫn của Bộ KH&CN và Bộ Tài chính; lập dự toán nhiệm vụ tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học chưa phù hợp tính chất nguồn kinh phí theo quy định.

Ngoài ra, Bộ đã phân bổ dự toán thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng đã được phê duyệt danh mục của cấp có thẩm quyền nhưng chưa tổ chức thấm định dự toán kinh phí, thẩm định nội dung; giao dự toán kinh phí cho dự án tăng cường năng lực nghiên cứu KH&CN chưa phù hợp tính chất nguồn kinh phí theo quy định; phân bổ kinh phí thực hiện các đề tài không căn cứ vào tình hình thực hiện và khả năng giải ngân; phân bổ kinh phí thực hiện một số Chương trình không đúng với số giao của Bộ Tài chính nhưng chưa có ý kiến thống nhất của Bộ Tài chính...;

Thêm vào đó, các nhiệm vụ được ưu tiên giao dự toán nhưng thực hiện không đúng tiến độ, phải gia hạn thực hiện dẫn đến số dư chuyển nguồn các năm lớn trong giai đoạn 2020-2022, chưa phát huy hết hiệu quả nguồn vốn được bố trí; đề tài không thực hiện nhưng chưa kịp thời hủy dự toán...;

Công tác thẩm định, phê duyệt nội dung thực hiện còn chưa phù hợp; biên bản họp thẩm định kinh phí không chi tiết nội dung các khoản chi, các thành viên không đánh giá sự phù hợp về dự toán kinh phí; các nhiệm vụ còn thực hiện không đúng tiến độ kế hoạch, phải gia hạn nhiều lần, dẫn đến nguồn vốn NSNN đã bố trí phải gia hạn kéo dài, chưa phát huy hết hiệu quả nguồn vốn được bố trí.

Công tác thẩm định, phê duyệt thuyết minh còn chậm, không phù hợp với thời gian thực hiện tại quyết định phê duyệt; thuyết minh của các nhiệm vụ thuộc Chương trình KHCN cấp Bộ để minh chứng cho nguồn đối ứng thực hiện theo cam kết đã được phê duyệt tại thuyết minh; phê duyệt nhiều nội dung giông nhau giữa các dự án nâng cấp tạp chí đạt chuẩn quốc tế mà không có tính kế thừa, lan tỏa, thuyết minh các nội dung mua sắm trong dự án không kèm báo giá;...

Một số đề xuất đề tài cấp Bộ chưa đủ bằng chứng để xác định cá nhân đề xuất có được ưu tiên làm chù nhiệm đề tài hay không theo quy định; hồ sơ xét chọn đề tài không lưu các biên bản tiếp thu, giải trình các ý kiến của Hội đồng thẩm định, tuyển chọn đề tài.

Kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ việc giao cho đơn vị chủ trì ký hợp đồng thực hiện đề tài là chưa đúng với quy định; ngoài ra thời điểm ký kết hợp đồng còn chưa phù hợp với thời gian bắt đầu thực hiện.

Bộ chưa theo dõi sát sao và có biện pháp xử lý, đôn đốc kịp thời đối với đề tài chậm, muộn nên nhiều đề tài thực hiện chậm tiến độ phải gia hạn thời gian thực hiện; một số đề tài gia hạn vẫn được xếp loại xuất sắc. Việc phê duyệt điều chỉnh thời gian thực hiện còn chưa thực hiện đúng theo quy định; giai đoạn 2020-2022 còn có 16 đề tài dừng thực hiện và 10 đề tài nghiệm thu không đạt.

Bộ chưa thực hiện quy trình quản lý, sử dụng tài sản là kết quả của nhiệm vụ khoa học công nghệ quy định tại Nghị định số 70/2018/NĐ-CP về việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn Nhà nước; các tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ chưa lập đầy đủ báo cáo về tài sản theo quy định.

Công tác lưu giữ kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN thực hiện chưa được tốt ở cả Bộ và các đơn vị chủ trì nên công tác số hóa, lưu trữ hồ sơ và công bố kết quả nghiên cứu chưa được đầy đủ. Không có chuyển giao kết quả sản phẩm của đề tài, nguyên nhân do kinh phí đầu tư thấp không đủ để thực hiện đủ các giai đoạn nghiên cứu triển khai hình thành và phát triển một sản phẩm công nghệ; trình độ năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ còn ở mức rất thấp; nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp bộ phần lớn mang tính lý thuyết, hàn lâm, phục vụ nghiên cứu và đào tạo là chính với tư cách là nguồn tài liệu tham khảo ...

Đối với hoạt động của Phòng thí nghiệm trọng điểm: Trường đại học Bách khoa Hà Nội chưa xây dựng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của Phòng thí nghiệm trọng điểm báo cáo Bộ GDĐT để phối hợp với cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; chưa ban hành quy chế tổ chức và hoạt động; hội đồng khoa học của Phòng thí nghiệm trọng điểm chưa được kiện toàn; hoạt động của Phòng thí nghiệm trọng điểm chưa bám sát định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới; việc giao nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng chưa tương xứng với nhiệm vụ của phòng thí nghiệm trọng điểm cấp nhà nước...

Bất cập trong ban hành văn bản quản lý các nhiệm vụ khoa học công nghệ

Trong việc ban hành văn bản quản lý các nhiệm vụ KH&CN, kết quả kiểm toán cho thấy một số bất cập tại Thông tư số 1l/2016/TT-BGDĐT ngày 11/4/2016 và Thông tư số 56/2012/TT-BGDĐT ngày 25/12/2012 của Bộ GDĐT.

Cụ thể, tại khoản 2 Điều 22 Thông tư số 11/2016/TT-BGDĐT ngày 11/4/2016 ban hành Quy định về quản lý đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ của Bộ hiện chỉ quy định “Điều chỉnh thời gian thực hiện đề tài cấp bộ chỉ được thực hiện một lần”; chưa quy định về số lần gia hạn và thẩm quyền phê duyệt trong trường hợp đặc biệt.

Tại Điều 19 “Hợp đồng thực hiện đề tài cấp Bộ” còn giao Thủ trưởng tổ chức chủ trì đề tài ký hợp đồng thực hiện đề tài cấp bộ với chủ nhiệm đề tài chưa phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 27 Luật KHCN số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 và khoản 2 Điều 26 Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/01/2014. Mặt khác, theo Mầu số 13 “Hợp đồng thực hiện đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ” và mẫu 29 “Biên bản thanh lý hợp đồng thực hiện đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ” được ký giữa bên đặt hàng (Bộ GDĐT) và bên nhận đặt hàng (đại diện Tổ chức chủ trì và Chủ nhiệm đề tài), do đó việc giao cho Thủ trưởng tổ chức chủ trì đề tài ký hợp đồng thực hiện đề tài cấp bộ với chủ nhiệm đề tài là chưa phù hợp

Thông tư số 56/2012/TT-BGDĐT ngày 25/12/2012 ban hành quỵ định quản lý nhiệm vụ hợp tác song phương về KHCN cấp Bộ của Bộ đến thời điểm kiểm toán (năm 2023) vẫn còn hiệu lực, tuy nhiên các văn bản căn cứ của thông tư đã hết hiệu lực từ năm 2014, cụ thể: Nghị định số 81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật KHCN đã hết hiệu lực vào tháng 3/2014. Mặt khác, Luật KHCN số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 và Nghị định số 08/2014/NĐ-CP chưa có quy định giao cho các Bộ, ngành thực hiện các nhiệm vụ hợp tác song phương về KHCN cấp Bộ và Thông tư số 10/2019/TT- BKHCN ngày 29/10/2019 quy định quản lý nhiệm vụ KHCN theo nghị định thư do Bộ KHCN chủ trì.

Từ kết quả kiểm toán, KTNN kiến nghị Bộ GDĐT chấn chỉnh, khắc phục các hạn chế, thiếu sót trong công tác lập, phân bổ dự toán nguồn kinh phí kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ. Đồng thời, chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong công tác đôn đốc, quản lý, kiêm tra, rà soát, xử lý các tài sản là sản phẩm của nhiệm vụ KHCN đã được nghiệm thu. Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính kiêm tra đánh giá thực trạng hoạt động của Phòng thí nghiệm trọng điểm Vật liệu Polyme và Compozit tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, báo cáo Chính phủ về phương án sắp xếp, tổ chức để quyết định khả năng tiêp tục mở rộng, hỗ trợ đầu tư hoặc cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của phòng thí nghiệm trọng điểm.

Đối với Thông tư số 11/2016/TT- BGDĐT ngày 11/4/2016, KTNN kiến nghị sửa đổi Điều 19 cho phù hợp với Luật Khoa học và công nghệ và các văn bản hướng dẫn Luật; sửa đổi, bổ sung Điều 22 về số lần gia hạn và thẩm quyền phê duyệt trong trường hợp đặc biệt. Đồng thời, rà soát tính pháp lý các văn bản làm căn cứ sửa đổi, bổ sung, thay thế Thông tư số 56/2012/TT-BGDĐT ngày 25/12/2012 quy định quản lý nhiệm vụ hợp tác song phương vê KH&CN cấp bộ của Bộ GDĐT phù hợp với quy định hiện hành.

Hà Linh