Công khai kết quả kiểm toán ngân sách địa phương và kết quả kiểm toán chuyên đề năm 2023 của tỉnh Bình Định

(sav.gov.vn) - Kiểm toán nhà nước vừa hoàn thành cuộc kiểm toán ngân sách địa phương năm 2023 của tỉnh Bình Định cùng 02 chuyên đề “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025” và “Việc quản lý sử dụng kinh phí sự nghiệp hoạt động kinh tế đường bộ giai đoạn 2021-2023” tại tỉnh Bình Định.

Qua kiểm toán, KTNN đánh giá, năm 2023, công tác lập, phân bổ, giao dự toán thu, chi ngân sách của địa phương đã cơ bản được thực hiện theo các quy định, hướng dẫn của Trung ương, Nghị quyết của HĐND Tỉnh.

Mặc dù có những khó khăn, thách thức, tác động tiêu cực đến giá cả, thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của các tầng lớp nhân dân. Song, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ và chính quyền địa phương, tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 của Tỉnh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và phát triển, đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực; 18/19 chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 đạt và vượt kế hoạch đề ra; thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp tăng 17,2% so với dự toán Trung ương giao.

Tuy nhiên, kết quả kiểm toán cũng cho thấy quá trình điều hành ngân sách của địa phương còn một số tồn tại cần khắc phục.

Kết quả kiểm toán ngân sách địa phương năm 2023

Công tác lập và giao dự toán NSNN

Về dự toán thu NSNN, tỉnh Bình Định ước thực hiện năm 2022 chỉ bằng 85% số thực hiện năm 2022; dự toán thu lập chỉ bằng 102,5% so với ước thực hiện năm 2022 chưa đảm bảo mức tăng bình quân theo qui định; Trung ương giao dự toán thu nội địa thấp hơn 25 tỷ đồng so với dự toán tỉnh lập, bằng 88% số ước thực hiện năm 2022.

Về dự toán chi NSNN, HĐND tỉnh Bình Định ban hành quy định tại Nghị quyết số 23/2021/NQ-HĐND ngày 11/12/2021 chi trả thù lao chủ tịch hội có tính chất đặc thù tại xã, phường, thị trấn với hệ số bằng 01 lần mức lương cơ sở/tháng  nhưng chưa có ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ LĐ - TB&XH.

Bên cạnh đó, địa phương đã giao dự toán cho các đơn vị cấp dưới còn trường hợp giữ lại nguồn 275,413 tỷ đồng (cấp tỉnh 67,769 tỷ đồng, các đơn vị dự toán 203,602 tỷ đồng; cấp huyện 4,042 tỷ đồng) để điều hành trong năm.

Giao dự toán 7,671 tỷ đồng cho các tổ chức hội đặc thù cấp tỉnh để chi trả tiền lương, chi hoạt động theo định mức không gắn với nhiệm vụ chi.

Có 287 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc nhóm 3, nhóm 4 được giao thực hiện cơ chế tự chủ tài chính nhưng chưa xác định tỷ lệ phần ngân sách hỗ trợ kinh phí thường xuyên.

Giao 95 lao động hợp đồng (tương ứng 6,460 tỷ đồng) cho Sở LĐTB&XH chưa có trong Đề án vị trí việc làm. Một số huyện, thị xã chưa thực hiện tiết kiệm thêm bình quân 10% chi thường xuyên theo hướng dẫn của Bộ Tài chính (huyện Tuy Phước 599 triệu đồng; huyện Phù Cát 598,6 triệu đồng); hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã nhưng không căn cứ vào kế hoạch đào tạo hàng năm của các xã, phường, dẫn đến kinh phí thừa chưa sử dụng 416,9 triệu đồng (thị xã Hoài Nhơn).

Thu NSNN

Đối với công tác quản lý thu tại cơ quan Thuế, có 35 trường hợp chậm nộp hồ sơ khai thuế nhưng cơ quan thuế chưa xử phạt VPHC; chưa quản lý thu thuế GTGT hoạt động xây dựng của 05 doanh nghiệp ngoại tỉnh số thuế 4,094 tỷ đồng phát sinh trên địa bàn; chưa có biện pháp để thu thuế xây dựng nhà ở tư nhân đã được cấp phép (Thị xã An Nhơn 278 giấy phép xây dựng, số thuế ước tính 792,8 triệu đồng; huyện Phù Cát 127 giấy phép, số thuế ước tính 295 triệu đồng; thành phố Quy Nhơn 447 giấy phép, số thuế ước tính 2,070 tỷ đồng; huyện Tuy Phước 49 giấy phép); chưa thực hiện xác minh, điều tra doanh thu để lập bộ quản lý thu đối với 190 giấy phép đăng ký kinh doanh được cấp phép trong năm (thị xã An Nhơn); chưa phối hợp với cơ quan đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải để nắm bắt số lượng hộ kinh doanh để quản lý thu thuế 219 hộ với số thuế ước tính là 986 triệu đồng.

Đối với công tác miễn, giảm thuế, gia hạn nộp thuế, có 02 doanh nghiệp tại thị xã An Nhơn thuộc trường hợp được giảm thuế GTGT nhưng phát hành hóa đơn chậm, cơ quan thuế chưa xác định mức độ vi phạm về chậm phát hành hóa đơn để xử phạt VPHC về hóa đơn. Chi nhánh Công ty TNHH Hào Hưng Phát đã hết thời gian được gia hạn nộp thuế 7,157 tỷ đồng nhưng Cục Thuế chưa thực hiện áp dụng biện pháp cưỡng chế để kịp thời thu nộp NSNN.

Đối với công tác hoàn thuế GTGT, Cục Thuế chậm giải quyết hoàn thuế cho NNT theo quy định (Có 70/374 hồ sơ giải quyết hoàn thuế chậm so với quy định từ 10 ngày đến 293 ngày); hồ sơ đề nghị hoàn thuế GTGT 58,904 tỷ đồng của Công ty TNHH DELTA GALIL Việt Nam quá 101 ngày chưa được giải quyết hoàn thuế; tính đến 31/12/2023 còn 1.581 quyết định hoàn thuế GTGT số thuế 4.689,817 tỷ đồng từ năm 2015 đến năm 2023 chưa được thanh, kiểm tra sau hoàn theo nguyên tắc rủi ro và trong thời hạn 05 năm (Trong đó: 230 quyết định hoàn 501,094 tỷ đồng đã quá thời hạn 05 năm và 06 quyết định hoàn 10,993 tỷ đồng thuộc trường hợp có rủi ro cao thuộc diện phải kiểm tra trong vòng 01 năm).

Công ty CP Phát triển tầm nhìn Năng lượng sạch có 02 dự án được Cục Thuế hoàn thuế GTGT (dự án đầu tư Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 3 (giai đoạn 2) số tiền 35,661 tỷ đồng; dự án đầu tư Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 1 (giai đoạn 2) với số thuế được hoàn 86,362 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc giải quyết hoàn thuế GTGT chưa đảm bảo cơ sở pháp lý để xác định chính xác, trung thực (do cùng có 02 hồ sơ nghiệm thu, cùng thời điểm, cùng ký xác nhận và đóng dấu của chủ đầu tư, nhà thầu thi công và đơn vị tư vấn giám sát, tuy nhiên số lượng tấm pin nghiệm thu làm cơ sở hoàn thuế GTGT hoàn toàn khác nhau về công suất, dẫn đến số tiền hoàn thuế khác nhau). Riêng tại dự án đầu tư Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 3 (giai đoạn 2) được hoàn thuế 35,661 tỷ đồng, bao gồm số thuế GTGT 8,392 tỷ đồng được hoàn theo tờ khai bổ sung của kỳ tháng 02/2023 chưa phù hợp với quy định tại điểm b khoản 4 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP (“Người nộp thuế chỉ được kê khai bổ sung tăng thuế GTGT đề nghị hoàn khi chưa nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế tiếp theo”).

Đối với công tác quản lý thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, còn một số khoản tạm thu tiền sử dụng đất 70 tỷ đồng và tiền thuê đất nộp một lần 30 tỷ đồng chưa đủ điều kiện thu nộp NSNN do chưa có đơn giá đất được duyệt, chưa có thông báo nộp của cơ quan thuế nhưng Sở Tài chính yêu cầu các doanh nghiệp nộp tài khoản thu ngân sách, cơ quan thuế, KBNN chưa phối hợp rà soát, dẫn đến hạch toán thu ngân sách năm 2023 chưa đảm bảo quy định của Luật NSNN; có trường hợp cơ quan KBNN hạch toán, điều tiết số thu tiền sử dụng đất không đúng cấp ngân sách (NS) được hưởng dẫn tới làm giảm thu NS tỉnh 4,407 tỷ đồng đồng thời tăng thu NS huyện Phù Cát, tăng số thu NS thị xã An Nhơn đồng thời giảm thu NS cấp xã 423 triệu đồng.

Đối với công tác quản lý thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, thị xã Hoài Nhơn chưa tổ chức nghiệm thu, xác định khối lượng thực tế đất san lấp đối với 02 dự án (Khu phố Định Bình, phường Hoài Đức diện tích 0,99ha; Thi công chống sạt lở tại Khu phố Định Bình, phường Hoài Đức diện tích 12.145m2) theo quy định Điều 65 Luật Khoáng sản và khoản 4 Điều 6 Nghị định số 67/2019/NĐ-CP của Chính phủ, làm cơ sở để tính và ban hành thông báo thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cho người nộp thuế.

Đối với công tác thanh tra, kiểm tra thuế, lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra chưa đảm bảo số lượng, đối tượng theo hướng dẫn của Tổng cục Thuế, điều chỉnh giảm kế hoạch thanh tra, kiểm tra chưa đúng quy trình (trong đó có Công ty CP Nguyệt Anh có dấu hiệu rủi ro về hóa đơn, nhưng không thực hiện thanh tra việc chấp hành pháp luật mà điều chỉnh giảm kế hoạch thanh tra năm 2023, đồng thời không đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại NNT năm 2024); công tác kiểm tra thuế tại cơ quan thuế chưa hoàn thành kế hoạch được phê duyệt; công tác kiểm tra tại trụ sở NNT chưa hoàn thành kế hoạch được Tổng cục Thuế giao.

Đối với Công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế, chưa thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế đối với khoản nợ trên 90 ngày (Công ty CP khoáng sản và thương mại Bình Định có số nợ thuế là 5,624 tỷ đồng); công tác cưỡng chế nợ thuế chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ, kịp thời các biện pháp cưỡng chế nợ thuế (Cục Thuế thực hiện cưỡng chế chưa kịp thời đối với Công ty CP đầu tư kinh doanh địa ốc BMC Quy Nhơn; Công ty CP đầu tư và dịch vụ H.B.C; Trung tâm Đào tạo Nghiệp vụ giao thông vận tải Bình Định và chưa áp dụng biện pháp tiếp theo đối với Trung tâm Đào tạo Nghiệp vụ GTVT Bình Định.

Chi cục Thuế thị xã An Nhơn chậm cưỡng chế Công ty cổ phần Xây lắp An Nhơn, Công ty cổ phần Giao thông Bình Định và 14 trường hợp hết thời gian gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất theo Nghị định số 12/2023/NĐ-CP.

Chi cục Thuế khu vực Phù Cát - Phù Mỹ chưa áp dụng các biện pháp cưỡng chế tiếp theo đối với Công ty TNHH Kỹ nghệ Gỗ Đông Dương, cưỡng chế chưa kịp thời đối với Công ty TNHH MTV NHQ Bình Định và chưa thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với Công ty TNHH TMDV Sơn Hữu.

Chi cục Thuế thành phố Quy Nhơn cưỡng chế nợ thuế Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại Thanh Vân chậm 113 ngày.

Chi cục Thuế khu vực Tuy Phước - Vân Canh chưa áp dụng biện pháp cưỡng chế tiếp theo đố với HTX Vận tải cơ giới 19/5 Tuy Phước).

Đối với công tác quản lý thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa: Số thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa đã nộp ngân sách cấp huyện 58,448 tỷ đồng theo Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND ngày 11/12/2021 của HDND Tỉnh, thay vì nộp ngân sách tỉnh theo quy định tại khoản 5 Điều 2 Thông tư số 18/2016/TT-BTC ngày 21/01/2016 của Bộ Tài chính; kết quả kiểm toán tại 05 huyện xác định khoản thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa phải nộp NSNN tăng thêm là 48,175 tỷ đồng.

Công ty TNHH Khoáng sản Thủy Tiên nợ tiền cấp quyền 7,474 tỷ đồng quá hạn 90 ngày, Cơ quan Thuế đã áp dụng các biện pháp ngừng sử dụng hóa đơn từ ngày 27/7/2022 nhưng Công ty vẫn chưa chấp hành nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên khoáng sản, Cơ quan thuế đã có văn bản gửi Sở TN&MT nhưng đến nay Doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện.

Chi đầu tư phát triển

Kết quả kiểm toán chỉ rõ, kế hoạch vốn trung hạn tính đến cuối năm 2023 bố trí thiếu 2.673,757 tỷ đồng so với tổng mức đầu tư được duyệt của 18 dự án, chưa đảm bảo nhu cầu vốn để thực hiện theo tiến độ dự án đã phê duyệt; bố trí vốn cho 07 dự án (720,157 tỷ đồng) vượt quá thời gian theo quy định (huyện Phù Cát); bổ sung 1.141,680 tỷ đồng kế hoạch vốn trung hạn cho 165 dự án khi chưa phê duyệt chủ trương đầu tư (thị xã An Nhơn 36 dự án, thành phố Quy Nhơn 121 dự án và huyện Phù Cát 08 dự án).

Bên cạnh đó, địa phương chưa ưu tiên bố trí vốn cho dự án đã được phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành (bố trí 40 tỷ đồng/77,206 tỷ đồng của 187 dự án đã được phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành), trong khi đó bố trí cho 59 dự án khởi công mới 198,504 tỷ đồng; bố trí vốn từ nguồn NSTW bổ sung có mục tiêu 312,406 tỷ đồng để chi bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với 03 dự án thuộc nhiệm vụ chi của NSĐP, đến thời điểm kiểm toán địa phương chưa bố trí đủ nguồn để hoàn trả phần vốn trung ương để thực hiện chi các gói xây lắp; KHV bố trí cho 127 dự án số tiền 213,399 tỷ đồng (huyện Phù Cát 05 dự án 16,630 tỷ đồng, thị xã An Nhơn 11 dự án 35,824 tỷ đồng, thành phố Quy Nhơn 111 dự án 160,945 tỷ đồng) khi chưa có quyết định đầu tư; bố trí vốn cho 05 dự án không có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 5,186 tỷ đồng (thị xã An Nhơn).

Phê duyệt chủ trương đầu tư 18 dự án chưa xác định cụ thể nguồn vốn, mức vốn và khả năng cân đối vốn cho dự án; dự án Khu dân cư phía Đông suối Ông Sung thuộc thẩm quyền phê duyệt của HĐND huyện, nhưng UBND huyện phê duyệt và điều chỉnh chủ trương đầu tư không đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 29 Luật Đầu tư công 2014 và khoản 2 Điều 27 Luật Đầu tư công 2019 (huyện Phù Cát).

Trong lập, thẩm định và phê duyệt thiết kế, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán tính thừa khối lượng, sai định mức, đơn giá tại 43 dự án được kiểm toán chi tiết 61,625 tỷ đồng.

Tại 05 huyện được kiểm toán chưa tuân thủ việc bố trí vốn để xử lý dứt điểm nợ đọng, trong đó 03 huyện, thị xã có số nợ phát sinh lớn lũy kế từ sau ngày 01/01/2015 đến 31/12/2023 nhưng KHV 2024 chưa được bố trí đủ vốn để xử lý (thị xã An Nhơn 113,637 tỷ đồng, Phù Cát 82,581 tỷ đồng; huyện Tuy Phước 22,637 tỷ đồng).

Ngoài ra, địa phương đã tạm ứng, ứng trước từ NSTW đến 31/12/2023 chưa thu hồi 41,102, tỷ đồng; dự án Di dời và tái định cư dân vùng thiên tai thôn Tân Phụng đã được NSTW bố trí vốn thu hồi ứng 2,164 tỷ đồng nhưng địa phương chưa thực hiện các thủ tục thu hồi vốn ứng trước cho dự án. Tạm ứng NSĐP năm 2022 chuyển sang có 02 dự án không được bố trí vốn năm 2023 để thu hồi 13,139 tỷ đồng, năm 2023 lại tiếp tục ứng vốn 17,173 tỷ đồng cho 02 dự án này chưa tuân thủ khoản 1 Điều 37 Nghị định 163/2016/NĐ-CP, khoản 1 Điều 57 Luật NSNN; năm 2023 chi tạm ứng ngân sách tỉnh 139,274 tỷ đồng cho 20 dự án chưa phù hợp (bao gồm: 06 dự án không có trong danh mục KHĐTC giai đoạn 2021 - 2025 và 14 dự án chưa được phê duyệt chủ trương đầu tư, không đủ điều kiện để đưa vào KHĐTC).

Chi thường xuyên

UBND Tỉnh điều hành chi ngân sách chưa bám sát dự toán đã được HĐND Tỉnh quyết nghị, tỉnh điều chỉnh, thay đổi dự toán so với dự toán đầu năm được HĐND Tỉnh quyết nghị số tiền 209,974 tỷ đồng nhưng không trình Thường trực HĐND Tỉnh quyết định và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất là chưa đảm bảo quy định tại khoản 2, khoản 5 Điều 30 và khoản 3 Điều 52 Luật NSNN 2015; bổ sung dự toán cho người làm công việc thừa hành phục vụ số tiền 6,723 tỷ đồng không đúng quy định của địa phương; phân bổ, giao dự toán để chi trả cho 95 hợp đồng lao động của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội 6,460 tỷ đồng vượt chỉ tiêu được UBND Tỉnh phê duyệt tại Đề án vị trí việc làm không đúng quy định theo khoản 3 Điều 3 Nghị định số 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ.

Năm 2023, ngân sách tỉnh hụt thu tiền sử dụng đất, tuy nhiên địa phương chưa chủ động rà soát, cắt giảm hoặc giãn tiến độ thực hiện các công trình, dự án được bố trí từ nguồn thu này theo quy định tại khoản 7 Điều 7 Thông tư số 78/2022/TT-BTC, dẫn đến phải điều chỉnh giảm kế hoạch vốn đối với số vốn đã thanh toán về đền bù, giải phóng mặt bằng 538,086 tỷ đồng để chuyển sang tạm ứng ngoài kế hoạch, không đúng quy định khoản 2 Điều 56 Luật NSNN 2015; huyện Phù Cát sử dụng nguồn tiền sử dụng đất bổ sung chi đầu tư cho các dự án thuộc nhiệm vụ các xã phải đối ứng vốn số tiền 16,933 tỷ đồng; HĐND huyện Tuy Phước ban hành Nghị quyết số 03/NQ-HĐND ngày 23/3/2021 hỗ trợ 60% với số tiền 140,809 tỷ đồng cho các xã từ nguồn thu tiền sử dụng đất tại các dự án do xã đầu tư, trong khi quy định của HĐND tỉnh là NS xã được hưởng 100%, là chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND ngày 11/12/2021 của HĐND Tỉnh, không đúng thẩm quyền quy định tại điểm c khoản 9 Điều 30 Luật NSNN 2015.

Bên cạnh đó, tỉnh chưa tổng hợp báo cáo đầy đủ nguồn cải cách tiền lương năm 2022 chuyển sang năm 2023 tại các đơn vị 73,192 tỷ đồng (đã được KTNN có ý kiến tại Báo cáo kiểm toán BCQT NSĐP năm 2022 của tỉnh Bình Định).

Quyết toán chi đầu tư XDCB 100 triệu đồng đối với vốn viện trợ không hoàn lại NSTW bổ sung có mục tiêu đã ghi chi 100 triệu đồng, tuy nhiên chưa ghi thu NSTW bổ sung có mục tiêu; quyết toán chi thường xuyên 33,718 tỷ đồng đối với kinh phí chính sách hỗ trợ đóng BHYT và BHXH tự nguyện vượt so với đối tượng thực tế được chi trả, quyết toán nhưng chưa thực chi.

Kinh phí NSTW bổ sung có mục tiêu cho tỉnh trước 30/9, cuối năm 2023 còn lại chưa sử dụng, hết nhiệm vụ chi nhưng chưa hoàn trả NSTW 4,462 tỷ đồng; kinh phí tỉnh bổ sung trước 30/9 cho các huyện, hết nhiệm vụ chi nhưng chưa hoàn trả NS tỉnh 8,230 tỷ đồng; các xã chưa nộp trả NS huyện đối với kinh phí huyện cấp còn thừa, hết nhiệm vụ chi 843,6 triệu đồng (thị xã An Nhơn).

Chi chuyển nguồn

Tỉnh đã chuyển nguồn đối với nguồn thu tiền sử dụng đất còn lại 87,608 tỷ đồng nhưng chưa có phương án sử dụng được HĐND Tỉnh thống nhất; một số nội dung đủ điều kiện chuyển nguồn nhưng chưa chuyển nguồn (như: số dư kế hoạch vốn được phép kéo dài và giải ngân sang năm sau 8,001 tỷ đồng; 70% nguồn tăng thu thực hiện so với dự toán năm 2023 để tạo nguồn CCTL năm 2024 số tiền 231,267 tỷ đồng). Một số huyện chuyển nguồn CCTL chưa đầy đủ 39,669 tỷ đồng (huyện Vĩnh Thạnh 13,118 tỷ đồng; huyện Vân Canh 22,165 tỷ đồng; các xã huyện Phù Cát 4,286 tỷ đồng; huyện Tuy Phước 100,9 triệu đồng); chuyển nguồn vốn đầu tư khi chưa được HĐND Tỉnh cho phép kéo dài và giải ngân sang năm sau số tiền 16,844 tỷ đồng (Huyện Vân Canh 2,687 tỷ đồng; huyện Tuy Phước 14,156 tỷ đồng); chuyển nguồn kinh phí tỉnh bổ sung mục tiêu trước 30/9, đã hết nhiệm vụ chi, không đúng quy định tại theo khoản 3, khoản 4 Điều 64 Luật NSNN 2015 (Huyện Vĩnh Thạnh 261,4 triệu đồng, huyện An Lão 794,1 triệu đồng).

Chuyên đề Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 

Kết quả kiểm toán chỉ rõ việc phân bổ và sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp kinh tế năm 2021 số tiền 39 tỷ đồng thanh toán cho 79 công trình khởi công mới chưa phù hợp các nhiệm vụ chi từ nguồn vốn sự nghiệp; năm 2022, 2023 địa phương sử dụng nguồn NSTW bố trí cho 26 xã thực hiện các nhiệm vụ xây dựng xã NTM nâng cao chưa phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 3 Quyết định số 07/2022/QĐ-TTg ngày 25/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ với KHV bố trí 38,781 tỷ đồng theo quy định (tỉnh cân đối từ nguồn NSĐP và nguồn lực hợp pháp khác để thực hiện).

Chuyên đề việc quản lý sử dụng kinh phí sự nghiệp hoạt động kinh tế đường bộ giai đoạn 2021-2023

Kết quả kiểm toán cho thấy, Sở Giao thông Vận tải  chưa lập kế hoạch bảo trì công trình đường bộ hàng năm, chưa theo dõi, cập nhật tình trạng hư hỏng, xuống cấp công trình đường bộ, làm sơ sở xác định thứ tự ưu tiên khi lập dự toán sửa chữa định kỳ.

Sở GTVT không tổ chức thẩm tra và phê duyệt quyết toán chi phí bồi thường, GPMB làm cơ sở quyết toán đối với 08 hạng mục công trình 99,059 tỷ đồng. 

Công tác lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công, dự toán của các công trình còn trường hợp dự toán tính thừa khối lượng công tác xây lắp, chi phí tư vấn 2,775 tỷ đồng.

Sở GTVT chưa tham mưu UBND Tỉnh ban hành văn bản thay thế Quyết định số 02/2018/QĐ-UBND ngày 17/01/2018 về quản lý, bảo trì đường bộ thuộc phạm vi quản lý của tỉnh để cập nhật theo các quy định hiện hành như: Cập nhật quy trình bảo trì; quản lý chất lượng công tác bảo trì công trình đường bộ; quản lý, bảo trì các công trình; báo cáo thực hiện công tác bảo trì công trình đường bộ.

Kiến nghị qua kết quả kiểm toán

Đối với UBND tỉnh Bình Định

Chỉ đạo các đơn vị điều chỉnh số liệu thu, chi NSĐP năm 2023 đảm bảo đúng quy định, cụ thể: điều chỉnh giảm thu NSNN trên địa bàn, thu NSĐP năm 2023 số tiền 100 tỷ đồng; điều chỉnh giảm chi NSĐP năm 2023 số tiền 33,818 tỷ đồng (chi đầu tư 100 triệu đồng; chi thường xuyên 33,718 tỷ đồng); điều chỉnh giảm chi chuyển nguồn sang năm sau số tiền 100,084 tỷ đồng (NS cấp tỉnh 79,691 tỷ đồng; NS cấp huyện 20,393 tỷ đồng).

Chỉ đạo các đơn vị thực hiện xử lý tài chính: 144,879 tỷ đồng (Thu nộp NSNN các khoản thuế, các khoản thu khác 51,256 tỷ đồng; thu hồi nộp NSNN các khoản chi sai chế độ 39,990 tỷ đồng; thu hồi kinh phí thừa 13,953 tỷ đồng; giảm dự toán, giảm thanh toán năm sau 15,448 tỷ đồng; xử lý tài chính khác 24,229 tỷ đồng).

Chỉ đạo các đơn vị thực hiện kiến nghị khác: 86,251 tỷ đồng.

Chỉ đạo Sở GTVT rà soát toàn bộ kinh phí GPMB 99,059 tỷ đồng tại 08 hạng mục công trình do Sở GTVT đã thanh toán để đảm bảo đầy đủ hồ sơ, thủ tục, quyết toán với NSNN theo quy định. Trường hợp không đảm bảo hồ sơ, thủ tục theo quy định đề nghị giảm quyết toán số tiền tương ứng.

Thực hiện và chỉ đạo các đơn vị thực hiện: 

(1) Báo cáo HĐND Tỉnh xem xét: (i) Quyết nghị việc điều chỉnh, bổ sung dự toán 209,974 tỷ đồng trước khi HĐND Tỉnh phê chuẩn quyết toán chi NSĐP năm 2023. Những trường hợp điều chỉnh dự toán không được HĐND Tỉnh quyết nghị, đề nghị UBND Tỉnh điều chỉnh giảm quyết toán để đảm bảo đúng quy định Luật NSNN 2015; (ii) Xử lý theo thẩm quyền về việc hỗ trợ kinh phí thực hiện các công việc thừa hành phục vụ áp dụng cho cả năm 2023, trường hợp HĐND không thống nhất, đề nghị UBND giảm trừ dự toán năm sau của các đơn vị số tiền 6,723 tỷ đồng.

(2) Tổ chức rà soát và cân đối nguồn vốn NSĐP để trình HĐND Tỉnh quyết nghị bổ sung số vốn bố trí thiếu của 18 dự án số tiền 2.673,757 tỷ đồng vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 -2025, nhằm đảm bảo nhu cầu vốn để thực hiện theo tiến độ dự án đã phê duyệt.

(3) Chấm dứt việc giao dự toán bao gồm quỹ tiền lương, kinh phí hoạt động thường xuyên cho các tổ chức hội 7,671 tỷ đồng nhưng không gắn với nhiệm vụ cụ thể, chưa đúng quy định Luật NSNN 2015 và Nghị quyết số 23/2021/NQ-HĐND của HDND Tỉnh.

(4) Chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong việc:

- Điều hành trong trường hợp hụt thu tiền sử dụng đất chưa đảm bảo quy định dẫn đến phải điều chỉnh giảm kế hoạch vốn đối với giảm số đã thanh toán về đền bù, giải phóng mặt bằng 538,086 tỷ đồng tại các dự án để chuyển thành tạm ứng ngân sách không đúng quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật NSNN 2015.

- Tạm ứng ngân sách tỉnh năm 2023 số tiền 139,274 tỷ đồng để chi: (i) 06 dự án không có trong danh mục KHĐTC giai đoạn 2021 - 2025; (ii) 14 dự án thiếu thủ tục đầu tư không đảm bảo theo quy định Nghị định số 40/2020/NĐ-CP, Nghị định 163/2016/NĐ-CP và Luật NSNN 2015.

- Không bố trí vốn để thu hồi tạm ứng của năm 2022 chuyển sang năm 2023 3,139 tỷ đồng tại 02 dự án, trong khi đó năm 2023 vẫn tiếp tục tạm ứng cho 02 dự án này 17,173 tỷ đồng.

- Trình HĐND phê duyệt chủ trương đầu tư 04 dự án và thực hiện phê duyệt chủ trương đầu tư 07 dự án chưa xác định cụ thể nguồn vốn, mức vốn và khả năng cân đối vốn cho dự án là chưa tuân thủ quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 9 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP và khoản 3 Điều 31 Luật Đầu tư công.

(5) Chỉ đạo tổ chức thanh tra việc hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 1 (giai đoạn 2) và dự án Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 3 (giai đoạn 2) để xác định số thuế GTGT đầu vào phát sinh trong giai đoạn đầu tư được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đảm bảo quy định của pháp luật về thuế GTGT. Trong đó lưu ý số tiền hoàn thuế GTGT 8.392.117.140đ của Tờ khai Hải quan số 104214431200 ngày 23/8/2021 để đảm bảo đúng với quy định tại điểm b khoản 4 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ.

(6) Chỉ đạo Sở Tài chính: Rà soát thực hiện chuyển nguồn đầy đủ đối với 70% tăng thu thực hiện so với dự toán năm 2023 để tạo nguồn CCTL năm 2024; báo cáo đầy đủ nguồn CCTL năm 2022 chuyển sang tại các đơn vị 73,192 tỷ đồng theo kiến nghị tại Báo cáo kiểm toán BCQT NSĐP năm 2022 của tỉnh Bình Định; phối hợp với Sở KH&ĐT tham mưu UBND Tỉnh bố trí đủ vốn để thu hồi các khoản tạm ứng ngân sách tỉnh chi cho các dự án phù hợp theo quy định của Luật NSNN 2015 và Luật Đầu tư công; chủ trì, phối hợp với Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch và UBND 11 huyện, thị xã, thành phố rà soát để xác định đầy đủ nguồn thu sự nghiệp, làm cơ sở giảm dự toán chi hỗ trợ kinh phí thường xuyên từ NSNN theo quy định tại khoản 3, Điều 4 Thông tư số 56/2022-TT-BTC; Chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong việc: (i) Phân bổ dự toán cho các đơn vị sử dụng NS chưa đầy đủ so với dự toán được cấp có thẩm quyền giao, còn trường hợp giữ lại nguồn để điều hành; (ii) Ban hành Công văn số 4253/STC yêu cầu các DN tạm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất vào tài khoản thu NS nhưng chưa đủ căn cứ quyết toán.

(7) Chỉ đạo Sở KH&ĐT: Chủ trì rà soát, tham mưu bố trí KHV để thu hồi vốn ứng trước từ nguồn NSTW cho Dự án Di dời và tái định cư dân vùng thiên tai thôn Tân Phụng phù hợp theo quy định của Luật NSNN 2015 và Luật Đầu tư công; Tham mưu UBND tỉnh bố trí nguồn NSĐP 312,406 tỷ đồng để hoàn trả vốn đầu tư cho 03 dự do đã sử dụng nguồn vốn NSTW để giải ngân, thanh toán cho công tác GPMB, tái định cư (thuộc nhiệm vụ chi của NSĐP); Chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong việc tham mưu cho UBND: (i) Chưa ưu tiên bố trí vốn cho dự án đã được phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành; (ii) Phân bổ nguồn vốn NSTW cho các xã  thực hiện xây dựng NTM nâng cao chưa phù hợp quy định tại Quyết định số 07/2022/QĐ-TTg ngày 25/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ (38,781 tỷ đồng); (iii) Phân bổ vốn sự nghiệp để chi đầu tư XDCB (79 công trình) không đúng hướng dẫn của Thông tư số 43/2017/TT-BTC ngày 12/5/2017.

(8) Chỉ đạo Cục Thuế:

- Tổ chức kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân có liên quan trong việc: (i) Giải quyết hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 1 (giai đoạn 2) và Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 3 (giai đoạn 2) khi hồ sơ nghiệm thu hoàn thành và đưa vào sử dụng không đảm bảo cơ sở pháp lý nhưng vẫn hoàn thuế GTGT số tiền 122,023 tỷ đồng (Dự án Phù Mỹ 1: số hoàn 86,362 tỷ đồng; Dự án Phù Mỹ 3: số hoàn 35,661 tỷ đồng); (ii) Chưa đưa Công ty CP Nguyệt Anh vào danh sách các đơn vị được thanh tra, kiểm tra tại NNT năm 2024 (do có dấu hiệu rủi ro về hóa đơn); (iii) Thực hiện thanh, kiểm tra sau hoàn chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 77 Luật quản lý thuế dẫn đến tồn đọng lớn số lượng các quyết định đã hoàn thuế nhưng chưa được kiểm tra; (iv) Giải quyết hoàn thuế GTGT chậm theo quy định tại Điều 75 Luật Quản lý thuế.

- Chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong việc: (i) Chưa thực hiện cưỡng chế, cưỡng chế chưa kịp thời theo quy định tại Điều 124, Điều 125 Luật Quản lý Thuế; (ii) Chưa quản lý thu thuế GTGT đối với hoạt động xây dựng của các doanh nghiệp ngoại tỉnh phát sinh trên địa bàn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 và khoản 1 Điều 13 Thông tư số 80/2021/TT-BTC; (iii) Điều chỉnh giảm kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT chưa đúng quy trình kiểm tra theo Quyết định số 970/QĐ-TCT; (iv) Chưa thực hiện tra soát tờ khai thu, nộp với KBNN Bình Định và người nộp thuế để xử lý các vấn đề sai sót liên quan đến chứng từ tạm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất vào NSNN 100 tỷ đồng, chưa đủ điều kiện quyết toán thu NS năm 2023 theo điểm đ khoản 1 Điều 5 Thông tư số 84/2016/TT-BTC.

- Tổ chức rà soát để xử phạt vi phạm hành chính về thuế theo quy định Nghị định số 125/2020/NĐ-CP đối với 02 doanh nghiệp (Công ty TNHH Xây lắp Tân Hoa, Công ty TNHH Xây dựng Tổng hợp Dịch vụ Tiến Thành) phát hành hóa đơn chậm, nhưng cơ quan thuế chưa xử phạt VPHC về hóa đơn theo quy định Điều 12, Điều 24 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP; Thực hiện thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật thuế đối với Công ty CP Nguyệt Anh để xác định đầy đủ nghĩa vụ về thuế.

- Chỉ đạo các Chi cục Thuế có biện pháp để thu thuế xây dựng nhà ở tư nhân đã được cấp phép; thực hiện xác minh, điều tra doanh thu để lập bộ quản lý thu đối với 190 giấy phép đăng ký kinh doanh được cấp phép trong năm (tại thị xã An Nhơn); phối hợp với cơ quan đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải để nắm bắt số lượng hộ để quản lý thu thuế.

(9) Chỉ đạo KBNN Bình Định và KBNN các huyện, thị xã chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong việc: Chưa thực hiện đúng trách nhiệm của KBNN theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Thông tư số 84/2016/TT-BTC trong việc hạch toán thu NS 100 tỷ đồng đối với khoản tạm nộp NS về tiền sử dụng đất, thuê đất; Chưa phát hiện và phối hợp với các cơ quan có liên quan xử lý sai sót, dẫn đến việc phân chia nguồn thu tiền sử dụng đất không đúng Nghị quyết của HĐND tỉnh (KBNN Phù Cát, KBNN An Nhơn).

(10) Chỉ đạo Sở TN&MT tham mưu UBND Tỉnh thực hiện thu hồi Giấy phép khai thác khoáng sản đối với Công ty TNHH Khoáng sản Thủy Tiên do không chấp hành nghĩa vụ với NSNN theo quy định quy định tại điểm c khoản 1 Điều 58 của Luật Khoáng sản năm 2010.

(11) Chỉ đạo Sở GTVT lập kế hoạch bảo trì hàng năm các tuyến đường tỉnh (ĐT) và đường huyện (ĐH) trình UBND tỉnh phê duyệt làm cơ sở xác định thứ tự ưu tiên để bố trí dự toán sửa chữa định kỳ; chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong việc không tổ chức thẩm tra và phê duyệt quyết toán chi phí bồi thường, GPMB làm cơ sở quyết toán đối với 08 hạng mục 99,059 tỷ đồng. 

(12) UBND Tỉnh để xử lý them thầm quyền đối với việc ký hợp đồng làm nhiệm vụ hỗ trợ, phục vụ, chăm sóc trực tiếp các đối tượng tại cơ sở trợ giúp xã hội công lập chưa có trong Đề án vị trí việc làm và không đúng quy định tại Nghị định số 161/2018/NĐ-CP và Nghị định số 111/2022/NĐ-CP 30/12/2022 của Chính phủ.

(13) Chỉ đạo UBND các huyện, thị xã:

- Tổ chức kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân: (i) Thị xã An Nhơn, huyện Phù Cát, huyện Tuy Phước để phát sinh nợ đọng XDCB và chưa bố trí vốn để xử lý dứt điểm nợ XDCB theo điểm a khoản 3 Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong chấp hành pháp luật về ngân sách nhà nước; (ii) Thị xã Hoài Nhơn trong việc không nghiệm thu, xác định khối lượng đất san lấp thực tế để phục vụ san lấp mặt bằng 02 dự án, làm cơ sở để tính và thông báo nghĩa vụ về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cho NNT.

- Chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong việc: (i) KHV bố trí cho 127 danh mục số tiền 213,399 tỷ đồng khi chưa có quyết định đầu tư; (ii) Quản lý thu tiền bảo vệ phát triển đất trồng lúa chưa đầy đủ, kịp thời vào NSNN số tiền 48,175 tỷ đồng theo kiến nghị của KTNN; (iii) Bố trí vốn cho 07 dự án (720,157 tỷ đồng) vượt quá thời gian bố trí vốn theo quy định Luật Đầu tư công; Phê duyệt chủ trương đầu tư của 07 dự án khi chưa xác định cụ thể nguồn vốn, khả năng cân đối vốn và tiến độ bố trí vốn; Phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Khu dân cư phía Đông suối Ông Sung không đúng thẩm quyền; Bổ sung có mục tiêu cho các xã để chi đầu tư cho các dự án không thuộc nhiệm vụ chi của huyện 16,933 tỷ đồng (huyện Phù Cát); (vi) Bố trí vốn cho 05 dự án không có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 5,186 tỷ đồng (thị xã An Nhơn);

Đối với HĐND tỉnh Bình Định

KTNN kiến nghị xem xét BCKT của KTNN khi phê chuẩn Báo cáo quyết toán NSĐP năm 2023; tổ chức theo dõi, giám sát việc thực hiện các kiến nghị của KTNN được nêu tại Báo cáo kiểm toán; tăng cường chức năng việc quản lý, điều hành ngân sách KTNN và hoạt động của Chương trình MTQG xây dựng NTM nhằm kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình.

Báo cáo xin ý kiến của các Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội liên quan đến việc ban hành các khoản chi đặc thù có tính chất tiền lương, tiền công theo quy định tại khoản 3 Điều 21 Nghị định 163/2016/NĐ-CP. Trường hợp các Bộ không thống nhất, xem xét sửa đổi định mức phân bổ cho Hội đặc thù cấp xã quy định tại tiết g điểm 2 Điều 13 Nghị quyết số 23/2021/NQ-HĐND cho phù hợp với Luật NSNN 2015 và Nghị định 163/2016/NĐ-CP.

Chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong việc quyết nghị sử dụng vốn NSTW bố trí cho các xã thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM nâng cao chưa phù hợp với quy định tại Quyết định số 07/2022/QĐ-TTg ngày 25/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Đối với HĐND các huyện, thị xã, thành phố

KTNN kiến nghị chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong việc quyết nghị bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 cho 165 danh mục dự án (1.141,680 tỷ đồng) khi chưa phê duyệt chủ trương đầu tư là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 52 Luật Đầu tư công 2019, gồm: thị xã An Nhơn 36 danh mục; thành phố Quy Nhơn 121 danh mục và huyện Phù Cát 08 danh mục.

HĐND huyện Tuy Phước chấn chỉnh rút kinh nghiệm đối với việc ban hành Nghị quyết số 03/NQ-HĐND chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND ngày 11/12/2021 của HĐND Tỉnh và trái thẩm quyền quy định tại điểm c khoản 9 Điều 30 Luật NSNN 2015.

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung văn bản

KTNN kiến nghị UBND tỉnh ban hành Quyết định điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế Quyết định số 02/2018/QĐ- UBND ngày 17/01/2018 về quản lý, bảo trì đường bộ thuộc phạm vi, quản lý của tỉnh cho phù hợp với các quy định tại Luật Xây dựng số 62/2020/QH14 ngày 17/6/2020; Nghị định số 06/2021/NĐ-CP ngày 26/01/2021 của Chính phủ; Thông tư số 37/2018/TT-BGTVT ngày 07/6/2018, Thông tư số 36/2020/TT-BGTVT ngày 24/12/2020, Thông tư số 41/2021/TT-BGTVT ngày 31/12/2021 của Bộ Giao thông vận tải.

HĐND Tỉnh xem xét điều chỉnh việc phân cấp nguồn thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa tại điểm g khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND ngày 11/12/2021 cho phù hợp với quy định về phân cấp, điều hành nguồn thu này được quy định tại khoản 5 Điều 2 Thông tư số 18/2016/TT-BTC ngày 21/01/2016 và khoản 2 Điều 1 Thông tư số 02/2023/TT-BTC ngày 06/01/2023 của Bộ Tài chính.
HĐND Tỉnh bãi bỏ Nghị quyết số 03/NQ-HĐND ngày 23/3/2021 của HĐND huyện Tuy Phước, trong đó quy định tỷ lệ cấp hỗ trợ lại nguồn thu tiền sử dụng đất của các dự án do xã, thị trấn làm chủ đầu tư giai đoạn 2021-2025 là chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND ngày 11/12/2021 của HĐND tỉnh và trái thẩm quyền quy định tại điểm c khoản 9 Điều 30 Luật NSNN 2015.

Hà Linh