Bảo đảm tính răn đe, ngăn ngừa vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Theo đó, để nâng cao hiệu quả tuân thủ quy định của pháp luật về BVMT, Quốc hội yêu cầu nâng cao vai trò của hoạt động kiểm toán môi trường nhằm phát hiện, cảnh báo kịp thời các hành vi vi phạm có tác động xấu đối với môi trường, góp phần phát triển bền vững.
Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường, tập trung đối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề; nâng cao chế tài xử lý, bảo đảm tính răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật về BVMT; tập trung xử lý dứt điểm các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp về môi trường ngay từ cơ sở; chú trọng thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường khi xảy ra sự cố gây ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Một trong những nhiệm vụ giải pháp, đột phá được Quốc hội đặt ra tại Nghị quyết là tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho BVMT.
Trong đó, chú trọng đầu tư phát triển các công trình BVMT và thích ứng với biến đổi khí hậu; ưu tiên nguồn lực từ ngân sách và nguồn lực xã hội hóa cho BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng môi trường thiết yếu như: hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị; hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải phù hợp cho từng loại rác, các nhà máy tái chế, xử lý rác thải hữu cơ, chất thải nguy hại; cải thiện và phục hồi môi trường các lưu vực sông; thích ứng với biến đổi khí hậu; hỗ trợ hoạt động chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính, vận hành thị trường các-bon; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ mới không phát thải, công nghệ lưu trữ năng lượng, thu giữ và sử dụng các-bon thông qua các cơ chế tài chính linh hoạt (như đầu tư công hoặc hợp tác công tư...); có cơ chế, chính sách đặc thù trong việc đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt.
“Bố trí đúng, đủ, quản lý có hiệu quả và tăng dần chi ngân sách cho bảo vệ môi trường tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm từ năm 2027 tỷ trọng ngân sách chi cho bảo vệ môi trường trong tổng chi ngân sách nhà nước tăng hơn so với năm 2025; phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương quyết định phân bổ nguồn lực cho bảo vệ môi trường” – Nghị quyết nêu rõ.
Cùng với đó, Quốc hội yêu cầu hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong BVMT; phát huy vai trò của các quỹ BVMT, huy động nguồn lực tư nhân thông qua các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh... để triển khai các dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính; chú trọng đổi mới hình thức, phương thức ưu đãi, hỗ trợ, cơ chế bảo lãnh rủi ro cho các dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường và áp dụng tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị - ESG phù hợp với nhu cầu thực tế của từng địa phương.
Đa dạng hóa nguồn cung tín chỉ các-bon trong và ngoài nước, trong đó ưu tiên cho phát triển thị trường trong nước. Khuyến khích phát triển các dự án tạo tín chỉ các-bon trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, lâm nghiệp, nông nghiệp các-bon thấp, xử lý chất thải, công nghiệp xanh, giao thông xanh, các công nghệ thu hồi, lưu giữ các-bon. Thúc đẩy đầu tư theo cơ chế đối tác công - tư, phát triển các mô hình hợp tác đầu tư cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu…
Phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường
Về nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2030 và các năm tiếp theo, Nghị quyết nêu rõ: Phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường; dự báo sớm tác động của biến đổi khí hậu.
Nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm về môi trường và tác động của biến đổi khí hậu nhằm chủ động phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ các khu vực có yếu tố nhạy cảm môi trường, hạn chế tác động xấu đối với môi trường và sức khỏe con người; kiểm soát lượng phát thải khí nhà kính, cung cấp dữ liệu kịp thời cho công tác hoạch định chính sách.
Kiểm soát chặt chẽ các yêu cầu về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đối với các dự án đầu tư; chủ động di dời các cơ sở sản xuất trong cụm công nghiệp, làng nghề gây ô nhiễm, đặc biệt là tại các cụm công nghiệp, làng nghề xen lẫn với khu dân cư tới địa điểm có quy hoạch phù hợp; thực hiện cam kết giảm phát thải khí nhà kính của các ngành, lĩnh vực theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định.
