Quốc hội chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà

(sav.gov.vn) - Tiếp tục Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV, sáng ngày 5/6/2018, Quốc hội tiếp tục tiến hành Phiên chất vấn và trả lời chất vấn dưới sự chủ trì và điều hành của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.

Các đại biểu Quốc hội tiếp tục chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà về: Công tác quản lý đất đai tại các thành phố lớn, các địa phương có nhiều khiếu nại, tố cáo; Tình trạng ô nhiễm môi trường và kiểm soát hoạt động xả thải của các doanh nghiệp; Các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu tại các vùng, địa phương, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long…

Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Trần Hồng Hà đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội từ 15h chiều 4/6/2018 và tiếp tục đăng đàn trong sáng ngày 5/6/2018, từ 8h đến 10h35. Trong chiều ngày 4/6/2018, Bộ trưởng Trần Hồng Hà đã trả lời trực tiếp chất vấn của 18 đại biểu Quốc hội tại hội trường và 08 đại biểu tranh luận.
 
Chuyển đổi đất rừng, đất nông nghiệp trái phép tại Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc

Đại biểu Nguyễn Anh Trí nêu câu hỏi chất vấn việc chuyển đổi đất rừng, đất nông nghiệp trái phép và hiện tượng đầu cơ đất đai tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hoà) và Phú Quốc (Kiên Giang) - 3 địa phương được quy hoạch trở thành đặc khu kinh tế.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà thừa nhận khi có kỳ vọng về tương lai phát triển hạ tầng tại khu vực nào thì theo quy luật, thị trường đất đai ở đó sẽ thay đổi, sốt nóng. "Chúng ta biết quy luật này nhưng ngoài việc ban hành biện pháp hành chính thì chưa có giải pháp căn cơ ngăn ngừa", Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.

Với 3 địa phương sắp thành đặc khu, theo ông Hà, sốt đất chủ yếu nghiêm trọng ở việc chuyển đổi đất rừng, đất nông nghiệp trái phép.

Trước thông tin Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc sẽ trở thành đặc khu kinh tế, giá đất tại 3 nơi này tăng 2-3 lần, cá biệt có nơi tăng 5-6 lần so với trước. Trong động thái gần đây chính quyền 3 địa phương trên đã có quyết định tạm dừng chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng nhằm kiểm soát cơn sốt đất.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói thêm, việc UBND các tỉnh dừng chuyển nhượng đất đai tại 3 địa phương trên là đúng, song nội dung chỉ thị lại không phù hợp pháp luật. Thay vào đó, ông đề nghị, Quốc hội nên ban hành Nghị quyết có quy định mang tính đặc thù về quản lý đất đai để giải quyết vấn đề này, lâu dài hơn phải có quy định trong Luật Đất đai.
 
Tại phiên chất vấn, đại biểu Phùng Đức Tiến đặt vấn đề giao dịch mua bán đất đai phức tạp tại 3 nơi sắp thành đặc khu kinh tế (Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc), nhất là có thông tin người nước ngoài đã mua nhà khu vực này. "Bộ trưởng cho biết thực trạng để đại biểu yên tâm trước khi bấm nút thông qua Luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt" – đại biểu Phùng Đức Tiến nói. 

Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, theo quy định hiện hành người nước ngoài không có quyền mua đất, chỉ có quyền mua chung cư ở đô thị. "Chính phủ chỉ đạo các cơ quan kiểm tra, qua đó chúng tôi chưa phát hiện người nước ngoài mua đất, họ chỉ mua các căn hộ chung cư ở các đô thị. Đại biểu thấy ở đâu người nước ngoài mua đất thì báo cho Bộ, cơ quan chức năng sẽ kiểm tra, điều tra xem bằng cách nào họ mua được, vì như vậy là trái pháp luật Việt Nam " – Bộ trưởng khẳng định.
 
Chưa bố trí quy hoạch đất đai của địa phương

Trả lời câu hỏi chất vấn của đại biểu Nguyễn Sỹ Cương về: Quản lý đất ở đô thị gây lãng phí, không có quỹ đất xây dựng các bãi đỗ xe. Nhưng thực tế điều tra có hơn 400 điểm trông giữ xe, nhiều trường học biến thành điểm trông xe ngày, đêm… Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định về góc độ môi trường không đồng tình khi biến sân trường học thành các bãi trông xe ngày - đêm. 

Bộ trưởng đề cập đến vai trò quản lý đất đô thị thuộc UBND các tỉnh, thành phố còn yếu kém; đồng thời nhận lỗi của Bộ Tài nguyên trong trường hợp này là "Chưa bố trí quy hoạch đất đai của địa phương".

Bộ trưởng thừa nhận quỹ đất bố trí cho các công trình giao thông tĩnh, ngầm tại các đô thị lớn hiện rất hạn hẹp, tại Hà Nội chỉ có 7%, trong khi nhu cầu xây dựng các bãi đỗ xe ở đô thị, đặc biệt là thành phố như Hà Nội là rất lớn. Trong khi đó, việc sử dụng quỹ đất lại chưa phù hợp, năng lực quản lý ở địa phương với đất đã giao cho các đơn vị sự nghiệp còn kém. 

"Ở đây có vấn đề triển khai cụ thể hoá quy hoạch, quản lý chưa tốt việc thu hồi đất doanh nghiệp sau cổ phần hoá, dự án doanh nghiệp để treo và sử dụng không đúng mục đích", ông Hà nhận diện. Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng cho rằng cần thu hồi những khu đất này để đưa việc sử dụng đúng mục đích và các cấp thẩm quyền cần có giải pháp căn cơ hơn về vấn đề bãi đỗ xe trong đô thị.

Không thừa nhận, xử lý giao dịch “ngầm” về đất đai

Một nghịch lý diễn ra hiện nay là dự án đầu tư và phát triển dù đã đền bù giá cao hơn so với trước dự án thì vẫn phát sinh khiếu kiện, một tỷ lệ không nhỏ những tỷ phú, đại gia Việt Nam ra đời từ những dự án sử dụng đất để phát triển các công trình bất động sản, những vùng càng phát triển, giá đất càng tăng thì Chính phủ càng cần nhiều tiền để đền bù và người dân càng nảy sinh khiếu kiện. Nêu thực tế trên, đại biểu Hoàng Văn Cường đặt câu hỏi: Chính sách đất đai của chúng ta, đặc biệt ở những vùng kinh tế có liên quan gì đến tình trạng trên và chúng ta có nên sử dụng chính sách ưu đãi nhà đầu tư bằng việc giao đất với giá thấp và miễn tiền sử dụng đất cho các nhà đầu tư hay không?
 

Đại biểu Hoàng Văn Cường nêu câu hỏi với Bộ trưởng

Cho rằng đây là một câu hỏi khó, liên quan đến vấn đề chính sách đất đai trong định giá đất đai, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nêu rõ, hiện nay có 5 cơ quan định giá đất đai, thế giới làm như vậy được, nhưng Việt Nam khó làm được, vì hiện nay tỷ giá đất đai rất biến động, chỉ cần chuyển từ trồng lúa sang quy hoạch đất phát triển bất động sản đã là hai vấn đề khác nhau. Trên thế giới thì quy hoạch của họ rất rõ ràng nên có thể như vậy, phương pháp của họ định giá cũng có thể làm được. Nhưng ở Việt Nam chưa hình thành thị trường nên phương pháp là tính vào giá thặng dư, thu nhập… vì là những nơi không có thị trường. Bộ trưởng cũng mong đại biểu sẽ hỗ trợ cho Bộ TN - MT trong vấn đề sửa đổi Luật Đất đai tới đây, trong đó có việc điều chỉnh chính sách đất đai, làm rõ cơ chế phân bổ nguồn lực đất đai trước và sau khi quy hoạch để tính toán thu trên đầu tư, chuyển đổi quy hoạch… và Nhà nước phải là người định đoạt vấn đề này. Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng nêu quan điểm, phải chú ý đến người dân để họ cảm thấy được chia sẻ và có công sức đóng góp với mảng đất đó; đối với nhà đầu tư, họ cũng phải tính toán làm sao có lợi nhuận.

Khẳng định giải pháp đương nhiên, tốt nhất là đấu giá đất đai nhưng trong nhiều điều kiện chưa đấu giá được, trong khi giá chưa dựa trên giá thị trường, để giải quyết theo cơ chế thị trường, Bộ trưởng cũng nêu rõ, trừ trường hợp vi phạm, “giao dịch ngầm” thì không thừa nhận và xử lý, còn đối với trường hợp đất sốt lên, tăng lên thì phải xử lý theo hướng một người được mua bao nhiêu đất, nếu mua nhiều hơn thì phải tăng giá lên, hoặc là tính toán lộ trình sử dụng, nếu không sử dụng thì tăng thuế đất đai lên… Những công cụ kinh tế đã có nghiên cứu và hiệu quả sẽ điều tiết toàn bộ quá trình làm cho thị trường ổn định. Điều này phải sửa trong luật đất đai, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Bộ trưởng cũng cho biết, ông quan niệm tài sản phải giao đúng, hạch toán vào sản xuất. Bản chất phải đánh giá được. Thậm chí đất nông nghiệp hiện nay đi quanh Hà Nội có nhiều mảnh đất hiện nay không sử dụng, hoang hóa, đó là do chúng ta không đặt ra quan tâm kinh tế về mảnh đất này. Khai thác hiệu quả thì phải tính thuế thu nhập mà không khai thác thì phải tính thuế để người sử dụng đất phải có sự tính toán.

Chưa có công nghệ xử lý rác thải phù hợp với Việt Nam

Trả lời chất vấn về xử lý chất thải rắn của đại biểu Trần Văn Minh, Lưu Bình Nhưỡng, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, vừa qua Bộ Tài nguyên Môi trường đã tham mưu lãnh đạo Chính phủ ban hành chiến lược, quy hoạch và tổ chức thanh tra. Bộ Xây dựng được phân công phê duyệt thiết kế các nhà máy xử lý rác, phân cấp một phần cho địa phương. Bộ Khoa học & công nghệ chịu trách nhiệm về công nghệ xử lý. "Chúng ta đang có khoảng trống là chưa hướng dẫn được công nghệ thích hợp. Thời gian qua sự phối hợp giữa các Bộ không tốt. Nếu để một Bộ làm sẽ không đủ năng lực xử lý, cần có sự phối hợp tốt hơn" – Bộ trưởng thừa nhận.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà giải thích thêm, rác thải Việt Nam khác với thế giới. Nhiều công nghệ xử lý rác thải hiện đại, tiên tiến sang Việt Nam chạy 3-4 tháng không đáp ứng nhu cầu. Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên, với thành phần rác hiện nay thì công nghệ đó là chưa phù hợp. Trong khi đó, công nghệ xử lý rác thải trong nước cũng chưa đáp ứng được nhu cầu vận hành, chỉ tiêu kỹ thuật, môi trường. "Nhiều nhà máy rác đưa vào đầu tư kinh phí lớn song thực tế không vận hành được, lãng phí. Chúng ta phải thống nhất khi ký hợp đồng với các công ty, ngoài thoả thuận về giá thì doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường; nếu không đáp ứng thì buộc phải đóng cửa số nhà máy này" – Bộ trưởng cho biết.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa tranh luận, doanh nghiệp trong nước cho biết có công nghệ xử lý rác tiên tiến không cần phân loại, không tốn công sức, thậm chí có thể sản xuất điện từ rác,... nhưng lại gặp sự cạnh tranh của công ty nước ngoài trong khi công nghệ của nước ngoài không bằng.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà thừa nhận, việc xử lý rác thải đang gặp vướng mắc. 60% rác thải ở địa phương là rác thải hữu cơ có thể xử lý trong khuôn viên hộ gia đình. Rơm rạ có thể xử lý thành phân bón cho đất. Tuy nhiên, rác thải ở Việt Nam không chỉ là rác hữu cơ, còn có pin, thuỷ ngân,... nên cần công nghệ xử lý phù hợp. Bộ trưởng cho biết đã đề nghị Chính phủ hỗ trợ về nguồn lực để làm sao "Sớm có công nghệ xử lý rác thải Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn, kỹ thuật".

Trả lời chất vấn của đại biểu Hoàng Văn Thưởng về việc có bảo đảm hoạt động của Nhà máy Formosa hay không, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nêu rõ, đến nay Formosa đã đi vào vận hành và thay đổi hoàn toàn phương pháp quản lý. Trong đó, chúng ta yêu cầu đầu tư công nghệ sản xuất, bổ sung về công nghệ xử lý môi trường với công suất lớn hơn rất nhiều; công nghệ giám sát, kiểm soát môi trường trực tuyến. Có 3 bước để đề phòng sự cố: Sự cố ngay tại nơi sản xuất, sự cố trong nhà máy và sự cố ngoài phạm vi nhà máy. Ngay hồ sinh học thì hoàn toàn có thể tái sử dụng nước. Với cách làm như vậy, từ khâu xem xét đánh giá công nghệ đến giám sát kiểm tra yêu cầu chặt chẽ thì không có ngành nghề nào xảy ra sự cố nếu chúng ta làm tốt, Bộ trưởng khẳng định.

Bờ biển bị "tư nhân hoá"

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đặt câu hỏi việc bờ sông, bờ biển bị tư nhân hoá. "Doanh nghiệp, nhà đầu tư lấn chiếm đường bờ biển, bờ sông vừa sai luật, bất công với người dân vì dân không có lối xuống biển tắm" – đại biểu Trương Trọng Nghĩa phản ánh.

Đại biểu Phan Văn Hoà cho rằng, hiện người dân "không có lối xuống biển tắm và lo trong tương lai đặc khu Phú Quốc sẽ gặp tình cảnh như vậy".

Về vấn đề cần quy định quản lý hành lang bờ biển, bờ sông, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, hiện đã có luật Tài nguyên biển, Luật biển, trong đó quy định rõ hành lang bờ biển, sông, nên không cần thêm quy định mà chỉ cần thực hiện đúng kỷ cương, kỷ luật. “Tại sao Đà Nẵng làm được, vì dựa trên cơ sở luật đã có”, Bộ trưởng đưa ra một ví dụ thực tế. Theo Bộ trưởng, với những trường hợp thực hiện theo quy định của Nhà nước trước khi có Luật thì cần được xem xét nhiều yếu tố; trường hợp từ khi có Luật thì phải thực hiện nghiêm theo luật.
 
Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định theo quy định hiện hành, toàn dân đều có quyền hưởng môi trường biển. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền của dân cần thiết sự vào cuộc của chính quyền địa phương.
 
Nói không với nhập khẩu phế liệu

Đại biểu Nguyễn Quang Dũng lo lắng việc nhập khẩu phế liệu về Việt Nam khá lớn, 3 tháng nhập hơn một triệu tấn sắt phế liệu. "Nhập như vậy nguy cơ biến nước ta thành bãi rác công nghiệp, phóng xạ”.

Trả lời về vấn đề này, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho hay, việc nói không với nhập khẩu phế liệu đã được nhiều quốc gia áp dụng. “Bối cảnh hiện nay Việt Nam không đủ năng lực công nghệ xử lý chất thải thì việc nói không với nhập khẩu phế liệu, chất thải là cần thiết" – Bộ trưởng nói.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, phế liệu sắt thép thì có thể kiểm soát được vấn đề môi trường. Tuy nhiên nếu các nhà máy xây dựng tập trung ở khu đông dân cư cũng có thể phát sinh vấn đề ô nhiễm. Vì thế, ông cho rằng việc cấp phép, bố trí các dự án sản xuất, luyện thép phải thực hiện đúng quy hoạch, đảm bảo khoảng cách bán kính an toàn với người dân.

Về tổng thể, chúng ta sẽ rà soát lại toàn bộ danh mục nhập khẩu phế liệu, chất thải.
 
Đất bị thu hồi làm dự án rồi để hoang hoá

Chất vấn về thu hồi đất của dân làm dự án rồi lại để hoang hoá, đại biểu Dương Minh Ánh nêu câu hỏi: "Bộ trưởng có biết tình trạng này, giải pháp là gì và mất thời gian bao lâu giải quyết?".

Bộ trưởng Trần Hồng Hà thừa nhận hiện tượng dự án treo ở các địa phương xảy ra từ trước khi có Luật Đất đai 2013, nguyên nhân xác định do năng lực nhà đầu tư, thiếu chế tài xử lý. Hiện Luật Đất đai 2013 đã quy định rất rõ chế tài, năng lực, cơ chế tài chính để ràng buộc nhà đầu tư. Tuy nhiên hiện tượng này vẫn chưa được xử lý vì còn chồng chéo giữa các quy định pháp luật.

Bộ trưởng giải thích, theo quy định Luật Đất đai 2013, dự án không thực hiện đúng tiến độ sau 24 tháng sẽ bị thu hồi, và trường hợp nhất định có thể cho phép kéo dài thêm 24 tháng nữa. Trong khi đó thời hạn này quy định tại Luật Đầu tư là 12 tháng. Nói quan điểm cá nhân, Bộ trưởng đồng tình nên thu hồi dự án treo, chậm tiến độ nếu sau 12 tháng doanh nghiệp không triển khai đầu tư, thực hiện. "Cần xem xét điều chỉnh lại điểm vênh giữa Luật Đầu tư và Luật Đất đai 2013, làm rõ nội hàm quá thời hạn 12 tháng thì thu hồi dự án treo ra sao?", Bộ trưởng nêu.

Theo Bộ trưởng, Luật Đất đai hiện nay cho phép thu hồi song không yêu cầu nhà đầu tư phải bồi hoàn và đây là bất cập. Bởi thực tế, nhiều dự án đã được chủ đầu tư dùng để thế chấp đất, vay vốn ngân hàng nên khi thu hồi dự án treo này sẽ gặp vướng mắc với Luật Đất đai. "Đây là vấn đề pháp lý, phải xem xét sửa luật để tạo điều kiện cho ngân hàng coi đất thế chấp là tài sản và họ được bán đấu giá để thu hồi tài sản cho Nhà nước", Bộ trưởng đề nghị. 

Đại biểu Nguyễn Thanh Hải đề cập tới bất cập trong đền bù, chuyển nhượng đất ở một số địa phương và đề nghị được biết trách nhiệm xử lý thuộc về ai?
Trả lời, Bộ trưởng Trần Hồng Hà thừa nhận trách nhiệm thuộc Ngành tài nguyên môi trường khi không làm tốt công tác dự báo. Quy định về đền bù, tái định cư đã được quy định rõ trong luật, tuy nhiên theo Bộ trưởng, ở đây có trách nhiệm của chính quyền địa phương khi đã cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất sai luật; không làm tốt quy hoạch quỹ đất, đất tái định cư...

Bộ trưởng khẳng định, Bộ Tài nguyên môi trường sẽ phối hợp với các Bộ thực hiện tốt hơn công tác rà soát, kiểm tra chuyển nhượng đất đai, song "Cũng mong các địa phương cho biết lý do vì sao khó khăn để chúng tôi tháo gỡ".

Đang thí điểm xử lý đất xen kẹt tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh

Đại biểu Phùng Văn Hùng chất vấn Bộ trưởng về việc chuyển đổi các mảnh đấy xen kẹt cho người dân với trường hợp địa phương không có nhu cầu sử dụng?
 
Đại biểu Phùng Văn Hùng chất vấn Bộ trưởng

Trả lời chất vấn của đại biểu Phùng Văn Hùng, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, tình trạng đất xen kẹt thường xảy ra ở các đô thị, các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Hiện nay, Bộ Tài nguyên – Môi trường đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đồng ý cho UBND 2 thành phố này thí điểm trong việc giải quyết đất xen kẹt. Quan điểm của Bộ là, nếu đất xen kẽ đủ lớn, quy hoạch để thực hiện các công trình công cộng phúc lợi xã hội thì Nhà nước sử dụng thành công trình phúc lợi xã hội. Còn đối với đất có thể chuyển đổi thành trung tâm thương mại, phục vụ cho nguồn lực phát triển kinh tế, thì UBND các địa phương sẽ thực hiện quyền đấu giá để tạo nguồn vốn, nguồn lực từ quỹ đất này để phát triển các công trình thương mại dịch vụ. Những mảnh đất xen kỹ chưa đủ lớn, trong trường hợp đó chúng ta sẽ xác định theo điểm, nếu liệt kê hộ dân nào thì tạo điều kiện cho hộ dân đó chuyển sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở và phải chịu trách nhiệm về tài chính. Và trong trường hợp đại biểu Phùng Văn Hùng nêu, Bộ trưởng cho biết, hoàn toàn đồng tình với đề xuất của đại biểu về việc tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân mà người có quyền sở hữu về đất nông nghiệp trước đây sẽ được chuyển đổi mục đích theo quy hoạch về đất đai, xây dựng, phát triển đô thị.

“Chúng tôi nắm rõ về 3 nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc”

Đại biểu Phạm Tất Thắng đề cập tới việc Trung Quốc xây dựng 3 nhà máy điện hạt nhân khá gần biên giới Việt Nam, từ 50 km đến 200 km. Theo đó, giả sử các nhà máy này có vấn đề trong hoạt động thì nguy cơ ô nhiễm phóng xạ với Việt Nam rất lớn. Bộ Tài nguyên có giải pháp gì ứng phó với nguy cơ đó?
 
Năm 2016, ba nhà máy điện hạt nhân ở phía nam Trung Quốc vận hành thương mại, gồm Phòng Thành (Quảng Tây) công suất 1000 MW, Trường Giang (Quảng Đông) 600 MW và tổ máy 650 MW của Sương Giang (đảo Hải Nam). Các nhà máy này đều nằm gần biên giới phía bắc Việt Nam, gần nhất là Phòng Thành chỉ cách Móng Cái, Quảng Ninh 50 km, cách Hà Nội dưới 500 km. Ngay thời điểm các nhà máy trên đi vào hoạt động, một số chuyên gia cho rằng người dân không nên hoang mang vì với các nhà máy điện hạt nhân, tiêu chuẩn an toàn luôn đặt lên hàng đầu, tuy nhiên cũng cần chuẩn bị kỹ các phương án phòng ngừa sự cố.

Cuối tháng 5/2018, thành phố Hà Nội đã phê duyệt đề án “Quản lý và giảm thiểu các rủi ro có thể trở thành thảm họa đối với thành phố Hà Nội”. Theo đó, thành phố dự báo một trong 10 rủi ro có thể trở thành thảm hoạ là rò rỉ phóng xạ nếu có sự cố từ 3 nhà máy điện hạt nhân ở khu vực Đông Nam của Trung Quốc. Thành phố giao Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng kịch bản chi tiết phòng chống khi có thảm họa rò rỉ chất phóng xạ, sự cố hạt nhân; tham mưu cho thành phố các nhiệm vụ liên quan đến các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ về phòng, chống và giảm nhẹ thảm họa.

Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng phát biểu giải trình, làm rõ thêm một số nội dung chất vấn của ĐBQH

Về công tác quản lý đất đai, đặc biệt ở khu vực đô thị, các khu vực phát triển kinh tế, khu vực ven biển, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho rằng, đã có nhiều chuyển biến, góp phần từng bước lập lại trật tự trong quản lý, sử dụng đất đai, phát huy được nguồn lực đất đat để phát triển KTXH. Tuy nhiên, công tác quản lý đất đai ở một số nơi còn nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể, theo Phó Thủ tướng, công tác quy hoạch xây dựng chưa quan tâm đến các không gian công cộng cho người dân (khu du lịch không có chỗ xuống bãi biển của người dân, thiếu các không gian công cộng, không gian giao thông tĩnh…) trong khi lại quá nhiều các dự án phát triển nhà ở, các công trình nghỉ dưỡng, khách sạn (như cử tri và ĐBQH phản ánh). Tình trạng giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án phát triển đô thị chưa căn cứ vào quy hoạch và kế hoạch phát triển đô thị dẫn đến nhiều dự án không được triển khai thực hiện, gây lãng phí đất đai. Tình trạng sử dụng đất sai mục đích, xây dựng không phép, trái phép vẫn chưa được khắc phục. Đặc biệt là tình trạng lấn chiếm không gian công cộng, bãi biển, bờ sông… Tình trạng mua bán đất và xây dựng trái phép đang diễn ra phức tạp ở Phú Quốc, Bắc Vân Phong, Vân Đồn… Đặc biệt là tình trạng xác định giá trị quyền sử dụng đất khi chuyển đổi mục đích trong các dự án đầu tư phát triển đô thị không sát với giá thị trường đã làm thất thoát vốn, tài sản nhà nước (trong các dự án nhà ở, dịch vụ, các dự án đầu tư bằng hình thức BT, cổ phần hóa DNNN).

Phó Thủ tướng thẳng thắn thừa nhận, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo để chấn chỉnh, nhưng tình trạng trên vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ yêu cầu các bộ ngành, và chính quyền địa phương thực hiện nghiêm Chỉ thị số 01 ngày 3.1.2018 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý đất đai. Đồng thời, cần triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quản lý đất đai, đầu tư phát triển đô thị (xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị); rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, đô thị, chú trọng dành quỹ đất cho giao thông (giao thông tĩnh, giao thông động), cho các không gian công cộng, dịch vụ đô thị, không gian công cộng bãi biển cho người dân…; công khai thông tin về quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch, phát triển các khu đô thị, dịch vụ cho người dân biết để tham gia đầu tư, quản lý và giám sát. Bên cạnh đó, phải kiểm tra chặt chẽ công tác chuyển đổi mục đích sử dụng đất đầu tư xây dựng phát triển đô thị, phát triển du lịch, xây dựng các công trình nhà ở, dịch vụ theo đúng quy hoạch, kế hoạch được duyệt; rà soát các dự án đã giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục tiêu dự án theo đúng quy hoạch; thu hồi những dự án không có khả năng thực hiện; ngăn chặn tình trạng mua bán đất trái phép đang diễn ra phức tạp tại Phú Quốc, Bắc Vân Phong, Vân Đồn… bảo đảm trật tự xã hội; kiểm tra lại rất cả các dự án đầu tư ven biển, yêu cầu điều chỉnh lại dự án để dành không gian biển phù hợp với yêu cầu của người dân và đúng quy định của pháp luật; thu hồi, xử lý nghiêm những hành vi lấn chiếm bờ biển; công khai minh bạch, cạnh tranh trong việc xác định giá trị quyền sử dụng đất tại các dự án phát triển đô thị nhà ở, dịch vụ, thực hiện đấu giá đất; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm những sai phạm trong quản lý đất đai, quản lý ĐTXD.

Về ứng phó biến đổi khí hậu và triển khai thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Phó Thủ tướng nêu rõ, biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn của nhân loại trong thế kỷ XXI. Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong đó đồng bằng Sông Cửu Long là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nhất. Những năm gần đây, biến đổi tác động đến nước ta nhanh hơn dự báo, một trong những biểu hiện rõ rệt nhất là diễn biến thiên tai ngày càng cực đoan, bất thường, không theo quy luật. Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo để xây dựng các giải pháp ứng phó với BĐKH, nước biển dâng, trong đó có việc ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP. Để đưa Nghị quyết này vào cuộc sống, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, trước mắt yêu cầu các Bộ, ngành cùng các địa phương khu vực ĐBSCL sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã được phân bổ trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn và các nguồn vốn khác đã được Quốc hội thông qua cho các địa phương để ứng phó với BĐKH, nước biển dâng và đầu tư phát triển kinh tế. Đồng thời, chuẩn bị thực hiện các dự án chống sạt lở bờ sông, bờ biển đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý hỗ trợ khẩn cấp 1500 tỷ từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương năm 2018,  và dự kiến bố trí 1000 tỷ từ nguồn dự phòng trung hạn 2016-2020 cho các tỉnh ĐBSCL. Bộ KHĐT phối hợp các Bộ, ngành, địa phương đề xuất, xây dựng cơ chế, chính sách để khuyến khích, huy động các nguồn lực xã hội, các nguồn lực quốc tế cho đầu tư vào phát triển khu vực ĐBSCL. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, liên ngành để làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp ứng phó với BĐKH tại khu vực ĐBSCL. Các Bộ, ngành trung ương phối hợp với các địa phương thực hiện tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của ngành mình, gắn với ứng phó BĐKH, nước biển dâng. Khẳng định quan điểm thích ứng là chủ yếu, Phó Thủ tướng nêu rõ, cần nghiên cứu các mô hình sản xuất, dịch vụ hiệu quả, phù hợp, thích ứng với BĐKH, nước biển dâng tại khu vực ĐBSCL, từ đó, xây dựng các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và quy hoạch toàn vùng làm cơ sở để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm thích ứng với BĐKH. Trên cơ sở quy hoạch, xây dựng kế hoạch thực hiện, cân đối các nguồn lực theo từng giai đoạn phù hợp với điều kiện của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Phải làm đồng bộ, thực chất, hiệu quả. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp tục đôn đốc, chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ đã nêu trong nghị quyết có ý nghĩa quan trọng này. Nhấn mạnh điều này, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng mong muốn các ĐBQH và cử tri đồng bằng song Cửu Long cùng vào cuộc với Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương. 

Bộ trưởng Trần Hồng Hà đã nắm chắc vấn đề, trả lời rõ ràng, thẳng thắn nhận trách nhiệm đối với những mặt còn hạn chế, đưa ra nhiều giải pháp thiết thực trong thời gian tới

Phát biểu kết luận Phiên chất vấn và trả lời chất vấn dành cho Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường Trần Hồng Hà, Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân nêu rõ, phiên chất vấn của QH đối với nhóm vấn đề này cũng đúng vào Ngày Môi trường Thế giới nên dành được không ít sự quan tâm của đại biểu. Phiên chất vấn diễn ra sôi nổi, tranh luận thẳng thắn theo đúng tinh thần đổi mới trong hoạt động chất vấn của QH. Trong buổi sáng ngày 5/5/2018, đã có 59 đại biểu đã đặt câu hỏi, 27 ý kiến tranh luận, 24 đại biểu có câu hỏi nhưng không được chất vấn tới Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà tại hội trường, sẽ được trả lời bằng văn bản. 
 
Bộ trưởng Trần Hồng Hà trả lời chất vấn

Chủ tịch QH đánh giá, các đại biểu đã đặt câu hỏi ngắn gọn, đi thẳng vào những vấn đề quan tâm. Đây là lần thứ 2 trả lời chất vấn trước QH, Bộ trưởng Trần Hồng Hà đã nắm chắc vấn đề, trả lời rõ ràng, thẳng thắn nhận trách nhiệm đối với những mặt còn hạn chế, đưa ra nhiều giải pháp thiết thực trong thời gian tới.

Chủ tịch QH cũng nêu rõ, đất đai và môi trường là những vấn đề liên quan chặt chẽ, mật thiết tới đời sống nhân dân, gắn với sự phát triển bền vững của đất nước nên được các ĐBQH, cử tri và nhân dân đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, công tác quản lý đất đai từng bước được triển khai chặt chẽ, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2016 - 2020 đã được các địa phương cơ bản hoàn thành; hoạt động kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực; đã xây dựng và triển khai kế hoạch quốc gia về thích ứng với biến đối khí hậu giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; đang triển khai Nghị quyết của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về đất đai, bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm, phòng chống biến đổi khí hậu cũng còn không ít tồn tại, hạn chế, bất cập như nhiều đại biểu đã chất vấn cần có các giải pháp thiết thực để tạo chuyển biến tích cực trong thời gian tới cả trước mắt và lâu dài.

Chủ tịch QH đề nghị Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan tiếp thu ý kiến của các ĐBQH, chỉ đạo quyết liệt, thực hiện các giải pháp đã đề ra nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế. Trong đó, tập trung vào các vấn đề sau:

 Một là, rà soát, đánh giá đầy đủ tình hình triển khai thi hành pháp luật về đất đai. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, quản lý về đất đai trên phạm vi cả nước, nhất là quỹ đất dùng cho mục đích công cộng ở các thành phố lớn; có biện pháp quản lý để hạn chế tình trạng đầu cơ đất đai gây tác động tiêu cực tới thị trường bất động sản; rà soát lại quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, các dự án BT có liên quan đến đất đai, việc sử dụng đất công lãng phí; chấn chỉnh, lập lại trật tự, kỷ cương quản lý đất ven sông, ven biển; xử  lý nghiêm đối với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về đất đai, nhất là người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị buông lỏng quản lý đất đai để xảy ra tình trạng lấn chiếm, chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, giao đất không đúng thẩm quyền; kiên quyết xử lý, thu hồi theo quy định của pháp luật đối với đất để hoang hóa, lãng phí, chậm đưa vào sử dụng;

Hai là, tiếp tục cải cách hành chính trong quản lý đất đai, khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai theo lộ trình xây dựng Chính phủ điện tử; nghiên cứu đổi mới các phương pháp định giá đất phù hợp với thực tiễn; tập trung giải quyết khiếu nại, tố cáo, các tranh chấp, khiếu kiện đông người, kéo dài liên quan đến đất đai;

Ba là, tập trung rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường; triển khai thực hiện các chương trình quan trắc và cảnh báo môi trường nhất là tại các thành phố lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, khu tập trung nhiều nguồn thải và khu vực nhạy cảm về môi trường;  triển khai Quy hoạch xử lý rác thải, xây dựng và triển khai mô hình mẫu về xử lý rác thải, hướng dẫn người dân làm tốt công tác phân loại rác; theo dõi chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp, các khu công nghiệp lớn, khu công nghiệp ven sông, ven biển có nguy cơ gây ảnh hưởng tới môi trường; rà soát, đánh giá hoạt động của các cụm công nghiệp ở các địa phương; giám sát hoạt động xả thải của doanh nghiệp, nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát chất thải, nước thải ở các địa phương, nhất là các cụm khu công nghiệp, các làng nghề, không để xảy ra sự cố nghiêm trọng về môi trường; quản lý chặt chẽ tài nguyên nước theo Luật tài nguyên nước.

Bốn là, làm tốt công tác đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường ngay từ khâu này; kiểm tra, giám sát việc đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường trong việc nhập khẩu, triển khai các dự án, rà soát, quản lý chặt việc nhập khẩu phế liệu, không nhập khẩu chất thải; đánh giá, phân loại nhà đầu tư, không triển khai các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, chú trọng thanh tra đột xuất các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm. Sớm xây dựng quy định giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.

Năm là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách về biến đổi khí hậu; xây dựng năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường vai trò, vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương về biến đổi khí hậu, chủ động hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế, các quốc gia có liên quan để giải quyết tốt các vấn đề do biến đổi khí hậu đặt ra; triển khai có hiệu quả Nghị quyết 853 của UBTVQH về giám sát và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về ứng phó biến đổi khí hậu ở Đồng bằng Sông Cửu Long; Quản lý chặt chẽ, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông gây sạt lở; Xây dựng Chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Sáu là, tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách và các nguồn lực khác cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu một cách hiệu quả; kiểm tra, giám sát, đánh giá kịp thời việc sử dụng các nguồn vốn trong và ngoài nước cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Ưu tiên bố trí và sử dụng hiệu quả kinh phí để triển khai thực hiện những dự án cấp thiết, đặc biệt là các dự án chống sạt lở bờ biển, bờ sông để tránh ảnh hưởng lớn đến sản xuất, tính mạng và đời sống nhân dân./.

Minh Thúy