Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030

(sav.gov.vn) - Sáng ngày 28/5/2020, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội nghe: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày về “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”, giai đoạn 2021-2030 (Chương trình); Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến trình bày Báo cáo thẩm tra về Đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021 – 2030. Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành phiên họp.

Trên 270 tỷ đồng đầu tư thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030

Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số, với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn sinh thủy, gắn với các công trình thủy điện quốc gia vừa cung cấp điện, vừa cung cấp nước sản xuất, sinh hoạt cho vùng hạ du và khu vực đồng bằng. “Hiện nay vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, KT-XH phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất nước” - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến khẳng định.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do vùng đồng bào DTTS&MN chủ yếu là núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng KT-XH kém nhất cả nước, xuất phát điểm rất thấp; biến đổi khí hậu, sự cố môi trường diễn ra nghiêm trọng và khó lường… Chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa lớn nên rất khó khăn để thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển KT-XH. Chính sách hỗ trợ phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN hiện vẫn còn tồn tại nhiều đầu mối xây dựng, quản lý, theo dõi; nguồn lực phân tán, dàn trải; chưa phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp; chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của vùng, phát huy nội lực của đồng bào để đẩy mạnh phát triển toàn diện vùng đồng bào DTTS&MN.
 

Theo Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến, việc xây dựng Chương trình là giải pháp quan trọng nhất, quyết định việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đã được Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019. Đồng thời, Chương trình sẽ góp phần tích cực để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc hiện nay. “Đối tượng điều chỉnh của Chương trình là xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn. Các xã thôn trên sẽ được Nhà nước ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo sinh kế, phát triển nguồn nhân lực và các chính sách đảm bảo an sinh xã hội cho con người tiếp cận các dịch vụ cơ bản, từng bước thu hẹp khoảng cách so với các vùng phát triển” - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho biết.

Thời gian thực hiện Chương trình là 10 năm (2021-2030), chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 2021-2025 và giai đoạn 2026-2030. Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2021-2025 tối thiểu 137.664,95 tỷ đồng. Trong đó ngân sách Trung ương tối thiểu 104.954,01 tỷ đồng, vốn đầu tư phát triển tối thiểu 50.629,16 tỷ đồng. Tổng vốn thực hiện giai đoạn 2026-2030 dự kiến 134.270,70 tỷ đồng.

Tạo cơ hội mới cho vùng đồng bào DTTS&MN phát triển, toàn diện, bền vững

Trình bày Thẩm tra của Hội đồng Dân tộc (HĐDT) của Quốc hội do Chủ nhiệm Hà Ngọc Chiến trình bày cho biết, HĐDT cơ bản tán thành với sự cần thiết xây dựng Chương trình như Tờ trình của Chính phủ. “Đây là một chương trình có tính đặc thù không chỉ phát triển KT-XH, mà còn tích hợp thực hiện hơn 100 chính sách dân tộc. Chương trình đã thể chế hóa khoản 5 Điều 70 Hiến pháp 2013 “Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của nhà nước”; thực hiện kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình hình mới và Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”, cơ bản phù hợp với Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước và Luật Quản lý nợ công” - Chủ nhiệm HĐDT Hà Ngọc Chiến nhận định.
 
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến trình bày Báo cáo thẩm tra

Về phạm vi, đối tượng, HĐDT đề nghị Chính phủ chỉ đạo tổng kết Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới và Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững, đối chiếu với Chương trình MTQG đang xây dựng mới, xác định nội dung cụ thể cho từng chương trình nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, loại bỏ những nội dung trùng lặp, chồng chéo giữa Chương trình MTQG này với 02 Chương trình MTQG và 21 Chương trình mục tiêu đang thực hiện.

Do nhu cầu đầu tư rất lớn, nhưng khả năng nguồn lực đáp ứng có hạn, đề nghị Chính phủ tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng những vấn đề cấp bách, bức xúc, lựa chọn đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cùng với các giải pháp có tính khả thi, phù hợp với từng giai đoạn, mang lại hiệu quả cao nhất.

Hội đồng Dân tộc đề nghị Chính phủ quán triệt các quan điểm trong Nghị quyết số 88, với 4 yêu cầu: Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến vùng đồng bào DTTS&MN; các chính sách phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực vươn lên của đồng bào DTTS; tích hợp chính sách đồng bộ, thống nhất, thu gọn đầu mối quản lý, phân công trách nhiệm rõ ràng; tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết, ưu tiên đầu tư cho địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù. Chương trình MTQG phải đảm bảo kết nối giữa các chính sách, xuyên suốt các thời kỳ, phát triển bền vững.

HĐDT thống nhất với các giải pháp chính sách, cơ chế Chương trình đề ra. Chính phủ cần sớm hoàn thành việc rà soát chính sách dân tộc và các văn bản quy phạm pháp luật đối với vùng đồng bào DTTS&MN, loại bỏ các chính sách, quy định kém hiệu quả; sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách nhằm tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc nhất của vùng đồng bào DTTS&MN theo tinh thần Nghị quyết 88; cần kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý Chương trình MTQG từ Trung ương tới địa phương.

HĐDT nhất trí việc thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG. Văn phòng Điều phối Chương trình MTQG đặt tại Ủy ban Dân tộc, nhưng không làm tăng biên chế. Đề nghị Chính phủ phân công nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc và các Bộ, ngành liên quan một cách hợp lý, rõ ràng, không chồng chéo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.

HĐDT đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030, để thực hiện từ năm 2021. Trên cơ sở Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình MTQG của Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo xây dựng báo cáo khả thi và tổ chức thực hiện Chương trình MTQG theo quy định của pháp luật. Đồng thời, khẩn trương ban hành tiêu chí phân định vùng đồng bào DTTS&MN, có quyết định phê duyệt chính thức xã, thôn cụ thể thuộc diện đầu tư của Chương trình MTQG./.
 
Khánh Vy