Công nghệ sổ cái phân tán với hệ thống thông tin kế toán

08/07/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Công nghệ sổ cái phân tán - trong đó Blockchain là một ví dụ đang tạo ra cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo ra những thách thức mới và cơ hội mới. Trong bài viết, chúng tôi nói đến sự tác động của công nghệ này đối với Kế toán và Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS). Việc áp dụng Sổ cái phân tán trong Kế toán có những đặc điểm cực kỳ thú vị, nó loại bỏ hoặc xác định lại vai trò của các thực thể bên ngoài công ty, chẳng hạn như Ngân hàng, Công ty bảo hiểm, Kế toán viên và Kiểm toán viên có Chứng chỉ hành nghề. Hơn nữa, chúng tôi sẽ cố gắng mô tả tác động của công nghệ này đối với AIS bằng cách đưa ra các giả thuyết về khả năng phát triển có thể xảy ra.

Công nghệ sổ cái phân tán - trong đó Blockchain là một ví dụ đang tạo ra cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo ra những thách thức mới và cơ hội mới. Trong bài viết, chúng tôi nói đến sự tác động của công nghệ này đối với Kế toán và Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS). Việc áp dụng Sổ cái phân tán trong Kế toán có những đặc điểm cực kỳ thú vị, nó loại bỏ hoặc xác định lại vai trò của các thực thể bên ngoài công ty, chẳng hạn như Ngân hàng, Công ty bảo hiểm, Kế toán viên và Kiểm toán viên có Chứng chỉ hành nghề. Hơn nữa, chúng tôi sẽ cố gắng mô tả tác động của công nghệ này đối với AIS bằng cách đưa ra các giả thuyết về khả năng phát triển có thể xảy ra.

Từ khóa: Hệ thống thông tin kế toán, Công nghệ sổ cái phân tán, Blockchain, Kế toán kép,  Kế toán tam phân.

1. Giới thiệu

Công nghệ sổ cái phân tán (Distributed Ledger Technology), hay gọi là Blockchain, đang tạo ra cuộc cách mạng đối với Internet. Mặt khác, bản thân Internet cũng đang thay đổi, nó không chỉ là nơi trao đổi thông tin mà còn là nơi ảo để trao đổi các giá trị thực.

Trong bài viết này, sẽ tìm hiểu về công nghệ Blockchain và sự phát triển của nó; sẽ phân tích sâu hơn về Công nghệ sổ cái phân tán và các mối quan hệ của nó với Trách nhiệm giải trình và Kế toán. Sau đó, sẽ phân tích tác động của Blockchain đến Hệ thống Kế toán và cuối cùng, sẽ đề cập những thay đổi cần thiết đối với Hệ thống thông tin kế toán để có thể khai thác công nghệ này.

Cần khẳng định rằng công nghệ mới này đang rất được chào đón, tuy nhiên chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu xem Công nghệ sổ cái phân tán có thực sự có khả năng cách mạng hóa Hệ thống thông tin kế toán và kế toán hay không?

Bài báo đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu:

RQ1: Việc áp dụng công nghệ Blockchain sẽ có tác động gì đến các trung gian kinh doanh?

RQ2: Liệu Blockchain có được áp dụng rộng rãi trong AIS của tất cả các công ty không?

RQ3: Đâu có thể là con đường phát triển của AIS có tính đến Công nghệ Blockchain?

 2. Định nghĩa Blockchain

 Công nghệ sổ cái phân tán (DLT) Distributed Ledger Technology- là một giao thức công nghệ cho phép dữ liệu được trao đổi trực tiếp giữa các bên khác nhau trong một mạng lưới mà không cần thông qua trung gian. Những người tham gia mạng tương tác với các mối quan hệ nhận dạng được mã hóa (ẩn danh). Mỗi giao dịch được mã hóa và thêm vào một chuỗi giao dịch bất biến. Chuỗi này được phân phối cho tất cả các nút mạng (sổ cái), do đó ngăn chặn sự thay đổi của chính chuỗi [1,5,9]. Mặc dù định danh chính xác của công nghệ này là DLT, nhưng chúng tôi sẽ sử dụng tên gọi  Blockchain trong phần còn lại của bài viết.

2.1 Chi tiết về công nghệ Blockchain

Blockchain có thể được coi là cơ sở dữ liệu phân tán, phi tập trung, minh bạch và logic theo thời gian của các giao dịch, đôi khi còn được gọi là Sổ cái. Dữ liệu trong chuỗi khối (ví dụ: giao dịch) được chia thành các khối. Mỗi khối phụ thuộc vào khối trước đó. Hệ thống trong đó blockchain đóng vai trò là cơ sở dữ liệu bao gồm các nút (hoặc “ nhân viên”). Những nhân viên này chịu trách nhiệm gắn các khối mới vào blockchain.

Một khối mới chỉ có thể được thêm vào sau khi tất cả các nút trong hệ thống đạt được sự đồng thuận, tức là tất cả đều đồng ý rằng khối là hợp pháp và chỉ chứa các giao dịch hợp lệ. Cách xác định tính hợp lệ của các giao dịch và cách các nút tính toán các khối mới, được quy định bởi giao thức mạng. Blockchain được chia sẻ giữa tất cả các nút trong hệ thống; nó được giám sát bởi mọi nút và không nút nào kiểm soát. Bản thân giao thức mạng có trách nhiệm giữ cho blockchain hợp lệ. Người ta phân biệt  ba cấp độ chính của ứng dụng Blockchain:

Blockchain 1.0: Tiền tệ.  Tiền tệ và các dịch vụ liên quan đến việc chuyển tiền, chẳng hạn như cơ chế thanh toán và dịch vụ chuyển tiền. Hiện tại, có hàng trăm loại tiền điện tử khác nhau, trong đó bitcoin vẫn là loại tiền lớn nhất trên thị trường. Các loại tiền tệ có thể có các tính năng khác nhau, chẳng hạn như được gắn với một tiền pháp định (fiat) hoặc hàng hóa, nhưng bản chất của chúng vẫn giữ nguyên -chúng được sử dụng để thanh toán và chuyển giao tài sản kỹ thuật số.

Blockchain 2.0: Hợp đồng thông minh. Đây là một lớp các hợp đồng thông minh, tinh vi hơn đối với tiền tệ. "Hợp đồng thông minh" là một giao thức máy tính được thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi, xác minh hoặc thực thi thương lượng hoặc thực thi hợp đồng trên nền tảng kỹ thuật số. Hợp đồng thông minh cho phép thực hiện các giao dịch một cách tin cậy mà không cần bên thứ ba.

Các giao dịch này có thể theo dõi và không thể thay đổi. Nick Szabo, người đặt ra thuật ngữ này vào năm 1994, là người đầu tiên đề xuất áp dụng hợp đồng thông minh [11]. Hợp đồng thông minh có thể là một phần nhỏ của cổ phiếu, trái phiếu, quyền chọn, thế chấp và tài sản trí tuệ. Trong khi cấp độ 1.0 là về phân cấp tiền tệ, thì cấp độ 2.0 là về phân cấp thị trường. Cấp độ này bao gồm tất cả các công nghệ nhằm mục đích phân cấp mối quan hệ của các đối tác khác nhau, chẳng hạn như nhà thanh toán bù trừ, ngân hàng, công ty. Có thể đưa ra một số ví dụ: dịch vụ cho vay ngang hàng Btc-jam, Bitbond, nền tảng huy động vốn cộng đồng Koinify, thị trường dự đoán bitcoin Augur, Fairlay.

Do đó, một hệ thống kế toán tiềm năng dựa trên nền tảng blockchain  được bao hàm bởi cấp độ 2.0 vì nó phải đại diện cho một hệ thống hợp đồng thông minh trong đó các giao dịch và hóa đơn thanh toán tự động được thực hiện và ghi lại. Gần như kể từ khi Bitcoin và sổ cái blockchain cơ bản của nó ra đời, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu khám phá các lĩnh vực khác mà công nghệ blockchain có thể rất hữu ích. Trong Blockchain 2.0, chúng ta đang giới thiệu các loại blockchain bổ sung và thảo luận về tiềm năng của chúng trong các lĩnh vực khác ngoài tiền điện tử.

Blockchain 3.0: Các lĩnh vực trong Chính phủ, Y tế, Khoa học v.v… Đây là một hệ thống ứng dụng blockchain ngoài thị trường tài chính, bao gồm chính phủ, nghệ thuật, văn hóa và khoa học. Ví dụ về các ứng dụng 3.0 là hệ thống bỏ phiếu blockchain, hệ thống tên miền phi tập trung - Namecoin, các ứng dụng chống kiểm duyệt như Alexandria và Ostel, và nhiều ứng dụng khác sử dụng các đặc tính bất biến và minh bạch của blockchain.

2.2 Đặc điểm (tính năng) công nghệ sổ cái phân tán

Đặc điểm kỹ thuật của công nghệ sổ cái phân tán là sử dụng các công cụ mật mã và quy trình đồng thuận phân tán để tạo ra những đổi mới đáng kể trong việc lưu trữ hồ sơ truyền thống. Nó có ba đặc điểm chính:

- Tính xác thực - Nhiều bản sao (thay vì một bản) của hồ sơ lịch sử hoàn chỉnh của các mục nhập sổ cái được xác minh bằng sự đồng thuận. Hồ sơ giả được xác định và loại bỏ do không thể đạt được sự đồng thuận.

- Tính minh bạch - báo cáo hoạt động công khai được hiển thị cho tất cả những người tham gia thị trường có thể nhìn thấy

- Xóa bỏ trung gian - Disintermediation - Hoạt động bằng cách sử dụng mạng ngang hàng và không yêu cầu một tổ chức trung tâm cụ thể.

Xóa bỏ trung gian một chức năng cốt lõi cung cấp các lợi ích liên quan đến sổ cái phân tán. Theo truyền thống, các hệ thống có sổ cái tập trung yêu cầu một bên thứ ba đáng tin cậy để theo dõi các giao dịch giữa các tổ chức. Sổ cái phân tán loại bỏ sự cần thiết của bên thứ ba, đây có thể là một lợi thế đáng kể khi mà không có tổ chức trung tâm rõ ràng, đáng tin cậy hoặc khi chi phí trung gian cao.

Các ứng dụng chính của công nghệ sổ cái phân tán cho đến nay là trong các dịch vụ tài chính, cụ thể là Bitcoin và tất cả các loại tiền điện tử khác. Với Blockchain, chúng ta có thể hình dung một thế giới trong đó các hợp đồng được nhúng trong mã kỹ thuật số và được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu dùng chung minh bạch, nơi chúng được bảo vệ khỏi bị xóa, giả mạo và sửa đổi. Trong thế giới này, mọi thỏa thuận, mọi quy trình, mọi nhiệm vụ và mọi khoản thanh toán sẽ có một bản ghi và chữ ký kỹ thuật số có thể được xác định, xác minh, lưu trữ và truyền đi. Các trung gian như luật sư, nhà môi giới và chủ ngân hàng có thể không còn cần thiết nữa.

2.3 Ứng dụng Blockchain

Mặc dù Internet là một công cụ tuyệt vời để trợ giúp trong mọi lĩnh vực của đời sống kỹ thuật số ngày nay, nhưng nó vẫn có những sai sót nghiêm trọng về tính bảo mật và quyền riêng tư, đặc biệt là khi nói đến FinTech và thương mại điện tử. Blockchain, công nghệ trung tâm của tiền điện tử, đã cách mạng hóa một thế giới hoàn toàn mới bằng cách cung cấp cơ chế cho mạng ngang hàng- giao dịch mà không cần bất kỳ cơ quan trung gian nào như các ngân hàng thương mại hiện có. Blockchain xác minh tất cả các giao dịch và lưu giữ hồ sơ vĩnh viễn về chúng, đảm bảo rằng mọi thông tin liên quan đến nhận dạng người dùng đều được giữ ở chế độ ẩn danh. Do đó, tất cả thông tin cá nhân của người dùng sẽ bị chặn cho đến khi có sự chứng minh của tất cả các giao dịch. Nó thực hiện điều này bằng cách hài hòa sự hợp tác lớn bằng cách tích lũy tất cả các giao dịch trong một sổ cái kỹ thuật số dựa trên mã máy tính. Bằng cách áp dụng blockchain hoặc các phương pháp tiền điện tử tương tự, người dùng không cần phải tin tưởng lẫn nhau hoặc một bên trung gian; thay vào đó, sự tin tưởng tự thể hiện trong chính hệ thống mạng phi tập trung.

Bitcoin chỉ là một trường hợp sử dụng blockchain. Blockchain được coi là một cuộc cách mạng mới trong lĩnh vực điện toán, cho phép không giới hạn số lượng ứng dụng, chẳng hạn như lưu trữ và xác minh các tài liệu pháp lý, bao gồm tài liệu và các chứng chỉ khác nhau, dữ liệu y tế, Internet of Things, điện toán đám mây, v.v. D. Tapscott chỉ ra rằng blockchain là “sổ cái của thế giới” Cho phép sử dụng nhiều ứng dụng mới ngoài xác minh giao dịch, ví dụ: trong: các vấn đề thông minh, các tổ chức phi tập trung và / hoặc tự trị / các dịch vụ của chính phủ, v.v. 

Các nhà nghiên cứu đề xuất các lĩnh vực ứng dụng này:

- Hợp đồng thông minh. Như chúng ta đã thấy, định nghĩa chung của hợp đồng thông minh là một chương trình máy tính có thể tự động thực hiện các điều khoản của hợp đồng. Vì chúng tự thực thi và có thông tin độc quyền được nhúng trong đó nên chúng có thể giải quyết các vấn đề về lòng tin của đối tác. Thay vì tái tạo lại các mối quan hệ hợp đồng, các hợp đồng thông minh làm cho việc hình thành và thực thi chúng hiệu quả hơn, tiết kiệm chi phí và minh bạch hơn. Các hợp đồng chuỗi khối và thông minh có thể hoạt động cùng nhau để bắt đầu thanh toán khi một thỏa thuận hợp đồng được lập trình trước được kích hoạt. Hợp đồng thông minh thực sự là ứng dụng sát thủ trong thế giới tiền điện tử. Việc sử dụng công nghệ blockchain đã làm cho việc đăng ký, xác minh và thực thi chúng dễ dàng hơn nhiều.

- Thanh toán trong nước. Ở cấp độ thủ tục, quy trình thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng đòi hỏi sự phối hợp phức tạp của các bước sử dụng nhiều nguồn lực giữa các ngân hàng, cơ quan thanh toán bù trừ và ngân hàng trung ương. Các bước này thường không được thực hiện một cách cố định, mà là một chu trình xử lý xảy ra nhiều lần trong ngày. Sự phức tạp của hệ thống hiện tại tạo thành một thách thức về thủ tục đối với các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán và nhấn mạnh nhu cầu về một hệ thống hiệu quả hơn để thanh toán theo thời gian thực, cả trong nước và quốc tế.

- Thanh toán quốc tế: Để đạt được các khoản thanh toán theo thời gian thực trên quy mô quốc tế, sẽ cần phải giới thiệu các nhà tạo lập thị trường ngoại hối (FX) vào mạng lưới blockchain. Họ sẽ thực hiện chuyển đổi tiền tệ trên các giao dịch giữa các tài khoản ngân hàng của người tiêu dùng. Sự tham gia của ngân hàng trung ương vào mạng lưới với tư cách là nhà tạo lập thị trường cũng sẽ cần thiết giữa dịch vụ thanh toán các nhà cung cấp ở các khu vực pháp lý tiền tệ khác nhau. Bằng cách này, các khoản thanh toán theo thời gian thực có thể đạt được trên cơ sở tiết kiệm chi phí.

- Tài trợ thương mại. Số hóa và tự động hóa các quy trình thương mại đã diễn ra trong nhiều năm, nhưng các quy trình cập nhật của các ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào hậu cần xử lý các tài liệu vật lý. Nhiều quy trình chia sẻ các phân tích ký tự tương tự nhưng yêu cầu các hệ thống công nghệ thông tin và các bước thủ tục hoàn toàn khác nhau để quản lý.

- Thị trường vốn. Khi giao dịch trên thị trường vốn, có một số bước thủ tục cho phép giao dịch tài sản theo quy định của pháp luật, cũng như một số dịch vụ giám sát nhằm tạo thuận lợi cho giao dịch. Các bước này được định nghĩa rộng rãi là: (1) Tạo đại diện cho một tài sản như tiền tệ, trái phiếu, cổ phiếu, vàng, v.v.; Cho phép thương lượng diễn ra giữa hai hoặc nhiều bên quan tâm; (3) Số dư phải được ghi chép và lưu giữ; (4) Khả năng thay thế vị thế của nhà đầu tư.

3. Blockchain và Kế toán

Như chúng ta đã thấy, các ứng dụng của Blockchain đã phát triển kể từ lần đầu tiên ra đời vào năm 2008. Có thể tìm thấy một tài liệu lớn về Blockchain, về các ứng dụng của nó, về điểm mạnh và điểm yếu của nó. Trong thời gian gần đây, một số học giả đã đề xuất việc áp dụng Blockchain trong Hệ thống Kế toán.

3.1 Sổ sách kế toán kép và kế toán tam phân

Kế toán tài chính hiện đại dựa trên hệ thống Double Entry- Kế toán kép. Double Entry Bookkeeping (DEB)(ghi sổ kép) -đã tạo ra cuộc mạng trong lĩnh vực kế toán tài chính trong thời kỳ Phục hung. DEB đã giải quyết được vấn đề của các nhà quản lý khi biết liệu họ có thể tin tưởng vào sách của chính họ hay không. Kế toán ghi sổ kép là một hệ thống ghi sổ được đặt tên như vậy vì mọi bút toán vào một tài khoản yêu cầu một bút toán tương ứng và ngược lại với một tài khoản khác. Ghi  kép có hai vế tương ứng và bằng nhau được gọi là ghi nợ và ghi có. Bên trái là ghi Nợ và bên phải là ghi Có

Trong phương pháp ghi sổ kế toán kép, cần có ít nhất hai bút toán ghi sổ cho mỗi giao dịch tài chính. Các bút toán này có thể xảy ra trong các tài khoản tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, chi phí hoặc thu nhập. Việc ghi số tiền ghi nợ vào một hoặc nhiều tài khoản và số tiền ghi có bằng nhau cho một hoặc nhiều tài khoản dẫn đến tổng số tiền ghi nợ bằng tổng số tiền ghi có cho tất cả các tài khoản trong sổ cái. Nếu các sổ sách kế toán được ghi chép không có sai sót thì số dư lũy kế của tất cả các tài khoản có số dư Nợ sẽ bằng số dư lũy kế của tất cả các tài khoản có số dư Có.

Bút toán kế toán liên quan đến tài khoản ghi nợ và tài khoản ghi có thường trong cùng ngày và mã nhận dạng trong cả hai tài khoản, để trong trường hợp có sai sót, mỗi khoản ghi nợ và ghi có có thể được truy xuất trở lại sổ nhật ký và tài liệu giao dịch gốc, do đó duy trì dấu vết để kiểm toán. Các bút toán kế toán được ghi vào "Sổ Cái". Bất kể tài khoản nào và mức độ ảnh hưởng của một giao dịch nhất định, phương trình kế toán cơ bản tài sản bằng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu sẽ được duy trì.

Tuy nhiên, để có được sự tin tưởng của người ngoài, các công ty kiểm toán độc lập cũng cần xác minh thông tin tài chính của công ty. Mỗi cuộc kiểm toán là một công việc tốn kém, bắt buộc các kế toán phải tốn nhiều thời gian.

3.2 Kế toán tam phân (Triple Entry Bookkeeping)

Công nghệ chuỗi khối có thể đại diện cho bước tiếp theo trong kế toán: thay vì lưu giữ các bản ghi riêng biệt dựa trên biên lai giao dịch, các công ty có thể ghi lại các giao dịch của họ trực tiếp vào một sổ cái dùng chung, tạo ra một hệ thống liên kết các tài khoản liên tục. Vì tất cả các bản ghi đều được phân phối và niêm phong bằng mật mã, việc giả mạo hoặc phá hủy chúng để che giấu hoạt động là gần như không thể.

Để giải thích khái niệm kế toán dựa trên Blockchain, một số nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ Kế toán tam phân, được mô tả như một sự cải tiến đối với kế toán bút toán kép thông thường trong đó các mục kế toán của các bên liên quan được niêm phong bằng mật mã bởi một thực thể thứ ba (Blockchain).

 Vì Blockchain là bất biến đối với bất kỳ sửa đổi dữ liệu nào nên không thể làm sai lệch hoặc xóa các bút toán kế toán đã viết. Đáng chú ý, khái niệm kế toán tam phân được mô tả lần đầu tiên vào năm 2005 bởi Ian Grigg ba năm trước khi Blockchain được phát minh [20]. Ian Grigg đã mô tả khả năng sử dụng biên lai kỹ thuật số được bảo vệ bằng đồ họa tiền điện tử để xác minh các giao dịch xảy ra giữa các đối chiếu và được lưu trữ bởi bên thứ ba và cho biết nếu có bất kỳ chi tiết nào trong hồ sơ bị thay đổi hoặc xóa. Với sự ra đời của Blockchain, các quy trình có thể trở nên tự động được ghép nối, giá rẻ và thậm chí đáng tin cậy hơn khi cần một bên thứ ba giữ biên lai theo cách tập trung được thay thế bằng sổ cái phi tập trung.

Lazanis là người đầu tiên mô tả một cách mạch lạc khả năng Kế toán Blockchain của các công ty thông thường. Ông nhấn mạnh rằng blockchain loại bỏ nhu cầu tin tưởng vào bất kỳ trung gian nào như ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm nếu một công ty tự nguyện thực hiện các giao dịch của mình trên Blockchain.

Các công ty sẽ được hưởng lợi theo nhiều cách: việc chuẩn hóa sẽ cho phép kiểm toán viên tự động xác minh một phần lớn dữ liệu quan trọng nhất đằng sau báo cáo tài chính. Chi phí và thời gian cần thiết để thực hiện một cuộc đánh giá sẽ giảm đi đáng kể. Kiểm toán viên có thể dành thời gian giải phóng cho các lĩnh vực mà họ có thể tăng thêm giá trị, ví dụ: trên các giao dịch rất phức tạp hoặc trên cơ chế kiểm soát nội bộ, dịch vụ tư vấn…

Không nhất thiết phải bắt đầu bằng một sổ cái duy nhất cho tất cả các bút toán kế toán. Blockchain như một nguồn tin cậy cũng có thể cực kỳ hữu ích trong cấu trúc kế toán ngày nay. Nó có thể được tích hợp với các thủ tục kế toán điển hình, từ việc đảm bảo tính toàn vẹn của hồ sơ đến các quy trình kiểm toán có thể truy nguyên đầy đủ. Cuối cùng, kiểm toán hoàn toàn tự động có thể trở thành hiện thực . Khi các công ty nhúng blockchain vào hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) của họ, đặc biệt là cho các nhiệm vụ như mua sắm và quản lý nhà cung cấp, vai trò của kế toán và kiểm toán thay đổi.

Tính minh bạch của Blockchain mang lại khả năng hiển thị cho tất cả các giao dịch đối với những người dùng được phê duyệt và điều này có thể làm giảm công việc của kiểm toán viên trong việc lấy mẫu và xác thực các giao dịch.

3.3 Hệ thống kế toán Blockchain thời gian thực (Real-time Blockchain Accounting System (RBAS)

Một dòng nghiên cứu khác liên quan đến hệ thống kế toán blockchain thời gian thực (RBAS). RBAS là một giải pháp phần mềm cho phép thực hiện các giao dịch với tiền tệ, các tài liệu phái sinh và các tài liệu kỹ thuật số khác giữa hai hoặc nhiều đối tác, lưu trữ dữ liệu giao dịch trong các khối được bảo vệ bằng mật mã, tính toàn vẹn của chúng được kiểm tra trong quá trình khai thác và cho phép chuẩn bị báo cáo tài chính bất cứ lúc nào.

Để các công ty và bên liên quan của họ có được tất cả các lợi ích do công nghệ mang lại, thì RBAS cần có các đặc tính sau

1. Tính minh bạch - các giao dịch phải hiển thị trong thời gian thực, như trường hợp của bitcoin.

2. Tính bất biến - không nên có khả năng lập trình để thay đổi bất kỳ dữ liệu nào sau khi đã được nhập, để đảm bảo rằng công ty sử dụng hệ thống không phải kiểm soát sức mạnh khai thác.

3. Khả năng tiếp cận - dữ liệu phải dễ dàng tiếp cận với nhiều bên liên quan
.
Báo cáo tài chính được lập định kỳ và tóm tắt những gì đã xảy ra trên sổ cái của công ty trong một thời kỳ nhất định. Sau đó, kiểm toán viên đưa ra ý kiến ​​về tính chính xác của báo cáo tài chính. Các bên bên ngoài, chẳng hạn như các nhà đầu tư và người quản lý rủi ro tín dụng, cần phải tin tưởng rằng cuộc kiểm toán là kỹ lưỡng và khách quan và công ty đã không cung cấp thông tin sai lệch cho kiểm toán viên. Có nghĩa là, khái niệm về sự tin cậy là rất quan trọng trong cả quá trình lập báo cáo tài chính và trong quá trình kiểm toán.

Đây là nơi mà công nghệ Blockchain đằng sau bitcoin có thể đóng một vai trò không thể thiếu. Nếu một công ty tự nguyện đăng tất cả các giao dịch kinh doanh của mình trên một blockchain, với dấu thời gian vĩnh viễn trên mỗi giao dịch, thì toàn bộ sổ cái của công ty sẽ hiển thị ngay lập tức và bất kỳ ai cũng có thể tổng hợp các giao dịch của công ty thành báo cáo thu nhập và bảng cân đối trong thời gian thực .

Điều đó có nghĩa là, phần lớn những gì mà một kiểm toán viên thực hiện ngày nay, blockchain có thể hoạt động hiệu quả hơn và nhanh hơn nhiều trong tương lai. Bằng cách xây dựng, nếu một công ty lưu trữ tất cả các giao dịch và số dư của mình trên blockchain, thì bản thân blockchain có thể thay thế đáng kể kiểm toán viên trong việc xác minh tính chính xác của kế toán của công ty, do đó tránh được rủi ro đạo đức tiềm ẩn hoặc các vấn đề của bản thân doanh nghiệp.

4. Blockchain và Hệ thống thông tin kế toán

Như đã đề cập ở trên, các công ty đang xem xét liệu có nên tích hợp các quy trình dựa trên Blockchain với hệ thống Hoạch định Nguồn lực Doanh nghiệp - Enterprise Resource Planning (ERP), đặc biệt là cho các nhiệm vụ như mua sắm và quản lý nhà cung cấp hay không. Công nghệ dựa trên sổ cái Blockchain có thể đơn giản hóa quy trình mua sắm vì nó cho phép ghi lại các giao dịch theo cách có thể dẫn đến sự minh bạch chưa từng có và tăng hiệu quả hoạt động [23].

Tuy nhiên, đối với công nghệ Blockchain, cần phải làm rõ:

(1) lĩnh vực ứng dụng thực sự là gì; (2) làm thế nào để thực hiện nó; (3) những lợi thế và bất lợi thực sự có thể là gì.

4.1 Phạm vi của Blockchain

Nhìn vào các tài liệu hiện tại về blockchain, chúng ta có thể thấy rằng có sự nhầm lẫn đáng kể, ít nhất là từ góc độ kế toán. Chúng tôi tin rằng cách tiếp cận hiện tại hoàn toàn là kỹ thuật và không tính đến các quy tắc kế toán.

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) là một hệ thống thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu kế toán phục vụ việc quản lý của một công ty. Cốt lõi của AIS là hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP), tức là quản lý tích hợp các quy trình kinh doanh cốt lõi, thường là theo thời gian thực và được trung gian bởi phần mềm và công nghệ.

ERP thực hiện kế toán tài chính, là một lĩnh vực kế toán gắn liền với việc tổng hợp, phân tích và báo cáo các giao dịch tài chính liên quan đến một doanh nghiệp. Kế toán tài chính tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của quốc gia và quốc tế, chẳng hạn như Nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP) và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), đồng thời sử dụng mô hình Double Entry. Nói cách khác, như đã trình bày trước đó, kế toán tài chính dựa trên hệ thống bút toán kép. Do đó, chúng ta có thể tuyên bố rằng các giao dịch được quản lý bởi hệ thống ERP phải thực thi các quy tắc Double Entry. Ngoài ra, họ phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế để đảm bảo rằng dữ liệu được quản lý một cách chính xác.

Chúng ta sẽ gọi các giao dịch này là Giao dịch nội bộ, phân biệt chúng với các giao dịch khác liên quan đến trao đổi thông tin giữa các công ty khác nhau, mà chúng ta sẽ gọi là Giao dịch bên ngoài.

Các giao dịch nội bộ được lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu quan hệ của hệ thống ERP theo logic của Double Entry. Thay đổi một giao dịch là không thể hoặc cực kỳ khó khăn. Một mặt, kiểm tra tính nhất quán nội bộ của cơ sở dữ liệu.

Các giao dịch nội bộ được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu quan hệ của hệ thống ERP theo logic của Double Entry .Không thể hoặc cực kỳ khó thay đổi một giao dịch. Một mặt, việc kiểm tra tính nhất quán nội bộ của cơ sở dữ liệu loại trừ khả năng xóa và sửa đổi bản ghi, mặt khác, cần phải thay đổi tất cả các bản ghi liên quan của ghi kép. Hoạt động nội bộ được giám sát bởi các kiểm toán viên độc lập bên ngoài. Điều này không chỉ đảm bảo tính chính xác của thông tin mà còn theo yêu cầu pháp luật hiện hành.

Đối với các giao dịch bên ngoài, chúng ta phải phân biệt giữa tình hình hiện tại và tình hình tương lai mà các công nghệ DLT sẽ được áp dụng. Hiện tại, các giao dịch bên ngoài được thực hiện bằng các kênh không chính thức như tin nhắn e-mail và không có kho lưu trữ an toàn, được chia sẻ và bất biến có chứa chính các giao dịch.

Với sự ra đời của blockchain, các giao dịch này có thể được kết hợp vào một sổ cái phân tán để đạt được các mục tiêu về bảo mật và chia sẻ của chúng. Ngoài việc lưu trữ vật lý trong một sổ cái được chính thức hóa, cũng có thể quản soát hợp lý các giao dịch, ví dụ: bằng cách kiểm tra sự tuân thủ của chúng với các điều kiện được quy định trong hợp đồng thông minh.

Cuối cùng, sử dụng công nghệ Blockchain, sẽ có thể kiểm soát tự động các giao dịch, điều này hiện chưa được thực hiện. Ngoài ra, việc xác minh có thể không chỉ tự động mà còn được thực hiện bởi các bên quan tâm có quyền truy cập vào sổ cái.

Bảng 1 Phạm vi của Blockchain
 
4.2 Cách triển khai Blockchain: Blockchain như một dịch vụ (BaaS)

Các lợi ích được khẳng định của Blockchain bao gồm việc cung cấp giá trị kinh doanh và tăng hiệu quả, chẳng hạn như hỗ trợ tuân thủ, theo dõi tài sản, quản lý chuỗi cung ứng và nói chung là thay thế các bên trung gian. Trọng tâm đặc biệt là các tình huống nhiều bên (giữa các tổ chức, bộ phận, cá nhân, v.v.), nơi sổ cái cung cấp nguồn dữ kiện minh bạch và đáng tin cậy trên các lĩnh vực quản trị .

Do đó, các dịch vụ Blockchain như một dịch vụ“Blockchain-as-a-Service”  (BaaS) đang nổi lên để làm cho blockchain dễ tiếp cận hơn với các doanh nghiệp bằng cách giảm chi phí triển khai. BaaS bao gồm một nhà cung cấp dịch vụ cung cấp và quản lý các thành phần khác nhau của cơ sở hạ tầng blockchain. Việc triển khai BaaS khác nhau tùy theo nhà cung cấp dịch vụ, ứng dụng cụ thể và mục tiêu của khách hàng.

Mặc dù có tài liệu nghiên cứu đáng chú ý về blockchain, các ứng dụng của nó và những lợi ích có thể đạt được khi triển khai nó, tuy nhiên theo như chúng ta biết, không có công trình nào liên quan đến các ứng dụng thực tế trong hệ thống thông tin kế toán (AIS).

Nhiều “ông lớn” như Microsoft, SAP hoặc Deloitte đang bắt đầu cung cấp các giải pháp kết hợp các công nghệ liên quan đến Blokchain, dựa trên cách tiếp cận “Blockchain As A Service” như những gì chúng ta đã thấy. Tuy nhiên, các giải pháp này vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm và tài liệu liên quan đang ở giữa tuyên bố ý định và đề xuất tiếp thị.

4.3 Các cân nhắc cuối cùng và các hướng nghiên cứu trong tương lai

Các tài liệu tham khảo ở trên nêu bật các đặc điểm, giá trị và lợi ích của việc triển khai các hệ thống DLT. Tuy nhiên, không có bài báo nào làm sáng tỏ quan điểm của các công ty. Ví dụ, chi phí thực tế của việc triển khai các hệ thống DLT là bao nhiêu? Lợi ích thực sự chứ không phải lý thuyết cho công ty từ việc triển khai các hệ thống như vậy là gì?

Trong tài liệu hiện tại, một số khía cạnh cơ bản bị loại trừ hoặc không được.

Trong tài liệu hiện tại, một số khía cạnh cơ bản bị loại trừ hoặc không được đánh giá đúng mức. Ví dụ, chúng ta có thể tranh luận rằng việc triển khai các hệ thống dựa trên DLT chỉ có ý nghĩa nếu:

(1) Tất cả hoặc hầu hết những người tham gia trong chuỗi giá trị chấp nhận các hệ thống này;

(2) Chi phí của các dịch vụ không trung gian mới thấp hơn chi phí của các nhà cung cấp dịch vụ hiện tại;

(3) Tiền điện tử có thể được chấp nhận để tận dụng toàn bộ lợi thế của Giá trị  Internet

Nghiên cứu trong tương lai cần xem xét đến các vấn đề sau đây:

Thứ nhất: Rất có thể để tạo ra một mạng lưới hiệu quả và có hiệu lực nếu một tỷ lệ lớn các công ty phải được kết nối với blockchain.

Điều gì xảy ra nếu chỉ một số công ty chuỗi giá trị tham gia vào blockchain?

Thứ hai: Công nghệ chuỗi khối thuận tiện nếu chi phí trung gian cao. Tuy nhiên, một số trung gian có thể không cần thiết: ví dụ như trường hợp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không bắt buộc phải có các thủ tục kiểm toán, do đó lợi ích của kế toán phức tạp như vậy sẽ bị mất.

Thứ ba: hiện tại vẫn chưa rõ liệu việc sử dụng rộng rãi tiền điện tử có thực sự khả thi hay không hay trong tương lai mọi người có thể sử dụng chúng hay không. Để đối phó với thách thức này, các hệ thống tài chính hiện tại có thể giảm chi phí, do đó làm cho việc sử dụng tiền điện tử không còn hấp dẫn.

Thứ tư, cần hành lang pháp lý rõ ràng cho Blockchain 

Được kỳ vọng ứng dụng rộng rãi ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực, nhưng Việt Nam lại chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho Blockchain, dẫn tới tình trạng “chảy máu” start-up Việt sang nước ngoài. Phần lớn các start-up Blockchain của Việt Nam hiện phải đăng ký công ty ở nước ngoài, dù trụ sở làm việc, công nghệ, nhân lực... đều ở Việt Nam.

Năm 2020, Bộ Tư pháp đã có báo cáo trình Chính phủ về việc rà soát khuôn khổ pháp lý có liên quan đến việc ứng dụng, phát triển các sản phẩm, dịch vụ được phát triển trên nền tảng công nghệ Blockchain.

Theo ông Nguyễn Thanh Tú, Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế (Bộ Tư pháp), có một số vấn đề lớn đặt ra đối với công nghệ Blockchain ở Việt Nam hiện nay là pháp lý và quản lý. Về pháp lý, chúng ta chưa có luật nên cần ban hành nghị định thí điểm (sandbox). Ngoài ra, phải có sự quản lý để phát triển công nghệ số và ứng dụng Blockchain theo kịp sự phát triển hiện nay.

Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đề xuất một số định hướng để xây dựng, hoàn thiện chính sách và khung pháp lý cho các sản phẩm, dịch vụ được phát triển trên nền tảng công nghệ Blockchain, gồm: Tạo môi trường tối ưu cho đổi mới sáng tạo nhưng cần bảo đảm tính trung lập về công nghệ theo hướng thị trường tự quyết định lựa chọn công nghệ; tận dụng khung pháp lý hiện hành để quản lý, xử lý các vấn đề liên quan nhưng cho phép các ngoại lệ hoặc ban hành các văn bản điều chỉnh (có thể mang tính thí điểm) trong trường hợp cần thiết cho từng vấn đề (nhóm vấn đề) cụ thể.

5. Kết luận

Internet đã thay đổi: từ Internet Thông tin, nó đã trở thành Internet của các Giá trị. Blockchain chắc chắn là một trong những công nghệ dẫn đến sự chuyển đổi này.
Tóm lại, chúng ta có thể trả lời các câu hỏi Nghiên cứu đã đặt trong phần giới thiệu:

RQ1: Việc áp dụng công nghệ Blockchain sẽ có tác động gì đối với các trung gian kinh doanh?

Disintermediation là tính năng cốt lõi thúc đẩy các lợi ích liên quan đến Sổ cái phân tán. Theo truyền thống, các hệ thống có sổ cái tập trung yêu cầu sự tham gia của bên thứ ba đáng tin cậy để duy trì hồ sơ chuyển đổi giữa các tổ chức. Sổ cái phân tán khắc phục được nhu cầu về bên thứ ba, đây có thể là một lợi ích đáng kể khi không có tổ chức trung tâm đáng tin cậy rõ ràng hoặc nếu chi phí trung gian cao. Các bên trung gian như ngân hàng, công ty bảo hiểm và kiểm toán viên sẽ phải xác định lại mối quan hệ của họ với các công ty.

RQ2: Liệu Blockchain có được áp dụng rộng rãi trong AIS của tất cả các công ty không?

Việc áp dụng các hệ thống dựa trên DLT chỉ có ý nghĩa nếu: (1) tất cả hoặc hầu hết các thành viên của Chuỗi giá trị áp dụng các hệ thống này; (2) chi phí của các dịch vụ hòa giải gián đoạn mới thấp hơn chi phí của các nhà cung cấp dịch vụ hiện tại; (3) có thể áp dụng tiền điện tử để tận dụng tối đa những lợi ích do Internet of Values mang lại. Ví dụ như đây không phải là trường hợp đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME).

 RQ3: Con đường phát triển của AIS có tính đến Công nghệ Blockchain là gì?

Việc áp dụng DLT trong hệ thống ERP không có ý nghĩa gì vì logic kế toán hiện tại là đáng tin cậy và hiệu quả hơn. Vì lý do này, cho rằng không có khả năng các phiên bản mới của hệ thống ERP dựa trên chuỗi khối sẽ được tạo ra. Ngược lại, một công ty mong muốn triển khai các giải pháp liên công ty thực sự hiệu quả và hiệu quả sẽ sử dụng các công nghệ Blockchain sử dụng nền tảng “Blockchain như một hệ thống” (BaaS)./.

PGS.TS Nguyễn Quang Hùng
(Tạp chí  Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán số 176)

Xem thêm »