23/10/2018
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Đánh giá kết quả 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi(sav.gov.vn) - Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, sáng 23/10/2018, tại Nhà Quốc hội, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến báo cáo đánh giá kết quả 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.Nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Đỗ Văn Chiến, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giai đoạn 2016 đến 2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, cả hệ thống chính trị đã chú trọng thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN), đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực.
Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 41 văn bản đề cập đến việc ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có 15 đề án, chính sách dân tộc. Hiện, có 54 chính sách còn hiệu lực hỗ trợ phát triển vùng DTTS, MN và hỗ trợ cho đồng bào DTTS.
Từ năm 2016 đến năm 2018, Chương trình 135 đã đầu tư 9.106 công trình, duy tu, bảo dưỡng 3.295 công trình; hỗ trợ trực tiếp cho 1,512 triệu hộ nghèo, cận nghèo. Tập huấn cho 103 ngàn người, dạy nghề cho 720 ngàn người DTTS, góp phần giúp con em tìm kiếm việc làm. Ngân hàng CSXH đã cho 1,4 triệu hộ DTTS vay 45.194 tỷ đồng (chiếm 24,7% tổng dư nợ), bình quân dư nợ 01 hộ là 30,5 triệu đồng (bình quân toàn quốc là 27 triệu đồng/hộ) để phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2017 ở các huyện nghèo giảm xuống còn dưới 40% (giảm khoảng 5% so với cuối năm 2016); tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4%. Có 8 huyện thoát khỏi huyện nghèo theo Quyết định 30a của Thủ tướng Chính phủ; 14 huyện ra khỏi diện hưởng chính sách như huyện nghèo; 34 xã đủ điều kiện ra khỏi diện đầu tư theo chương trình 135.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đạt kết quả bước đầu quan trọng; công tác bảo vệ và phát triển rừng ở vùng DTTS&MN có bước chuyển biến tích cực. Đến tháng 8/2018, đã có 1.052 xã vùng DTTS, miền núi được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 22,29 % (toàn quốc đạt tỷ lệ 38,32%). Năm 2017, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.451 ha (giảm 68% so với năm năm 2016); 9 tháng năm 2018, rừng bị thiệt hại 873 ha (giảm 22,2% so với 9 tháng năm 2017), về cơ bản rừng tự nhiên đã được quản lý tốt hơn.
Mạng lưới trường, lớp giáo dục mầm non, trường phổ thông ở vùng DTTS và miền núi tiếp tục được củng cố, mở rộng, nhất là các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học dân tộc; chất lượng giáo dục của các trường PTDTNT được nâng lên. Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS chuyển biến tích cực, có mặt tiến bộ. Công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS được chú trọng hơn. Thông tin, tuyên truyền vùng DTTS và miền núi phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng nhu cầu thông tin, liên lạc của nhân dân. Việc xây dựng, ban hành chính sách đối với đồng bào DTTS rất ít người đã thật sự được quan tâm. Việc xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ đối với người có uy tín trong cộng đồng được chú trọng…
Bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cũng thừa nhận một số hạn chế, bất cập trong việc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS và MN như: Đồng bào các DTTS sinh sống ở địa bàn KTXH khó khăn và đặc biệt khó khăn; ở những địa phương nghèo, chủ yếu nhận hỗ trợ ngân sách từ Trung ương, khó có thể lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chính sách dân tộc, trong khi đó ngân sách Trung ương lại chưa bố trí được nguồn vốn riêng để thực hiện một số chính sách, do vậy không đạt được mục tiêu các đề án, chính sách đã được phê duyệt; một số vấn đề di cư tự phát, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt,... giải quyết chưa hiệu quả; đời sống của một bộ phận đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn. Thu nhập bình quân của hộ đồng bào DTTS nhiều nơi chỉ bằng 40-50% bình quân thu nhập trong khu vực; tỷ lệ dân số DTTS chiếm 14,6% nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả nước.
Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng DTTS và MN tuy đã được nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp, mức độ tiếp cận các dịch vụ còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ được cấp thẻ BHYT cao nhưng tỷ lệ khám, chữa bệnh còn thấp…
Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS trong cơ quan Nhà nước các cấp có xu hướng giảm; đa số các Bộ, ngành và địa phương chưa đạt được tỷ lệ theo quy định tại Quyết định 402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Để tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định bổ sung nguồn vốn đầu tư công trung hạn để thực hiện một số đề án, chính sách đã được ban hành; đề nghị Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội tăng cường hơn nữa công tác giám sát để các cấp, các ngành thực hiện chính sách dân tộc thiết thực, hiệu quả hơn. Đồng thời, đề nghị Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường công tác giám sát, nhất là việc phân bổ nguồn lực đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, đảm bảo phát triển hài hòa giữa các miền, vùng trong cùng một địa phương.
Cần tổng kết việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số, miền núi
Báo cáo thẩm tra đánh giá 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và MN giai đoạn 2016 – 2018, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến cho biết: Hiện nay hệ thống chính sách dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng đồng bộ, toàn diện; phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã đạt được kết quả quan trọng.
Tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số giảm mỗi năm 4% (hiện còn 28,45%). Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được cải thiện hơn trước. Điểm nổi bật là an ninh, quốc phòng vùng dân tộc thiểu số, miền núi được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường và củng cố. Tuy nhiên, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội nhận thấy, trong số 15 chính sách trực tiếp, chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực xã hội như: Giáo dục, văn hóa, thông tin, chưa có nhiều chính sách về kinh tế, lao động, việc làm, phát triển hạ tầng, giải quyết đất ở, đất sản xuất, tạo sinh kế bền vững cho vùng DTTS và MN. Trong khi đây là những chính sách căn bản để giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay các chương trình, chính sách, dự án đầu tư cho vùng DTTS và MN rất nhiều, gồm 118 chính sách đang có hiệu lực, do 10 Bộ, ngành quản lý, chủ trì chỉ đạo, cùng với đó là những quy định về cơ chế, nguồn lực khác nhau gây nên khó khăn trong tổ chức thực hiện và theo dõi, tổng hợp. Trong công tác quản lý Nhà nước, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành trong triển khai, hướng dẫn thực hiện. “Báo cáo chưa phân tích, đánh giá tác động, hiệu quả, nguyên nhân hạn chế của chính sách, cả chủ quan và khách quan; trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong ban hành và tổ chức thực hiện chính sách” – ông Hà Ngọc Chiến nói.
Công tác theo dõi địa bàn, nắm bắt tình hình vùng DTTS và MN của một số Bộ, ngành và địa phương chưa sâu sát, chậm tham mưu đề xuất giải quyết những vấn đề phát sinh… Thực hiện chính sách ở các địa phương còn gặp phải những vướng mắc do phân bổ nguồn lực thiếu, giải ngân chậm, cơ chế thủ tục chưa phù hợp.
Về kết quả thực hiện giảm nghèo, Hội đồng dân tộc thống nhất đánh giá kết quả giảm nghèo giai đoạn vừa qua đã đạt các chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội cho rằng, kết quả giảm nghèo ở các vùng phụ thuộc vào cơ cấu dân cư, dân tộc. Số liệu giảm nghèo chung ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ chưa phản ánh đúng thực chất của vùng dân tộc. Chính phủ cần có số liệu phân tích bổ sung rõ hơn về thu nhập bình quân, số hộ nghèo và tỷ lệ giảm nghèo trong đồng bào dân tộc ở các khu vực; đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn, đúng thực chất mức sống, thu nhập, sinh kế, mức độ tiếp cận văn hóa, giáo dục, y tế.., của đồng bào dân tộc thiểu số; phân tích, làm rõ thực trạng của việc gia tăng các huyện nghèo thuộc diện 30a, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo trong vùng DTTS và MN.
Về đầu tư kết cấu hạ tầng, báo cáo của Chính phủ chưa có thông tin số liệu đầy đủ về kết cấu hạ tầng vùng DTTS và MN, đặc biệt là những địa bàn, khu vực còn thiếu về cơ sở hạ tầng thiết yếu. Hội đồng dân tộc của Quốc hội đề nghị Chính phủ căn cứ vào chỉ tiêu của Quyết định 1722 và mục tiêu của chương trình Nông thôn mới để đánh giá so sánh kết quả đã đạt được.
Về bảo vệ và phát triển rừng, giai đoạn 2016-2018, Chính phủ đã triển khai một số chính sách nhằm đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng, cho vay tín dụng cho hộ gia đình, tổ chức, cá nhân nhằm bảo vệ và phát triển rừng. Qua giám sát của Hội đồng Dân tộc cho thấy kết quả thực hiện giao khoán rừng rất thấp (chỉ có 11,5% số hộ DTTS được giao khoán với mức bình quân 2,13 ha/hộ; 10,7% số hộ DTTS được cấp quyền sử dụng với mức bình quân 2,7 ha/hộ).
Đối với lĩnh vực dạy nghề và giải quyết việc làm, Báo cáo cần bổ sung thông tin, số liệu cụ thể, phân tích, đánh giá đúng mức hơn thực trạng giải quyết việc làm và công tác dạy nghề ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến chỉ rõ, con số báo cáo lao động trong độ tuổi có việc làm là 8,01 triệu (chiếm 86,1%) cao hơn mặt bằng chung của cả nước (76,4%) là chưa sát thực tế, trong khi đó tình trạng thất nghiệp của thanh niên dân tộc thiểu số là 5,76%, cao hơn gấp 2,5 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của cả nước 2,34%.
Hiện nay do khu vực miền núi thiếu việc làm dẫn đến tình trạng lao động tự phát qua biên giới, lao động tự do về các trung tâm đô thị, xu hướng đi lao động ở các khu công nghiệp, hầm mỏ ngày càng nhiều. “Đây là những vấn đề mới cần được bổ sung và nghiên cứu để có những chính sách phù hợp hỗ trợ cho lao động dân tộc thiểu số” – ông Hà Ngọc Chiến nhấn mạnh.
Hội đồng Dân tộc cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo tổng kết việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số, miền núi (nhất là những chủ trương, chính sách lớn), để có cơ sở xây dựng, ban hành chính sách mới cho giai đoạn tiếp theo, khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập của việc thực hiện chính sách trong giai đoạn vừa qua.
Hằng năm, Chính phủ cân đối, bố trí nguồn lực thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số, miền núi./.
M. Thúy
(sav.gov.vn) - Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, sáng 23/10/2018, tại Nhà Quốc hội, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến báo cáo đánh giá kết quả 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá kết quả 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi tại Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIV (Ảnh:TTXVN)
Nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Đỗ Văn Chiến, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giai đoạn 2016 đến 2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, cả hệ thống chính trị đã chú trọng thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN), đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực.
Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 41 văn bản đề cập đến việc ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có 15 đề án, chính sách dân tộc. Hiện, có 54 chính sách còn hiệu lực hỗ trợ phát triển vùng DTTS, MN và hỗ trợ cho đồng bào DTTS.
Từ năm 2016 đến năm 2018, Chương trình 135 đã đầu tư 9.106 công trình, duy tu, bảo dưỡng 3.295 công trình; hỗ trợ trực tiếp cho 1,512 triệu hộ nghèo, cận nghèo. Tập huấn cho 103 ngàn người, dạy nghề cho 720 ngàn người DTTS, góp phần giúp con em tìm kiếm việc làm. Ngân hàng CSXH đã cho 1,4 triệu hộ DTTS vay 45.194 tỷ đồng (chiếm 24,7% tổng dư nợ), bình quân dư nợ 01 hộ là 30,5 triệu đồng (bình quân toàn quốc là 27 triệu đồng/hộ) để phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2017 ở các huyện nghèo giảm xuống còn dưới 40% (giảm khoảng 5% so với cuối năm 2016); tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4%. Có 8 huyện thoát khỏi huyện nghèo theo Quyết định 30a của Thủ tướng Chính phủ; 14 huyện ra khỏi diện hưởng chính sách như huyện nghèo; 34 xã đủ điều kiện ra khỏi diện đầu tư theo chương trình 135.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đạt kết quả bước đầu quan trọng; công tác bảo vệ và phát triển rừng ở vùng DTTS&MN có bước chuyển biến tích cực. Đến tháng 8/2018, đã có 1.052 xã vùng DTTS, miền núi được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 22,29 % (toàn quốc đạt tỷ lệ 38,32%). Năm 2017, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.451 ha (giảm 68% so với năm năm 2016); 9 tháng năm 2018, rừng bị thiệt hại 873 ha (giảm 22,2% so với 9 tháng năm 2017), về cơ bản rừng tự nhiên đã được quản lý tốt hơn.
Mạng lưới trường, lớp giáo dục mầm non, trường phổ thông ở vùng DTTS và miền núi tiếp tục được củng cố, mở rộng, nhất là các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học dân tộc; chất lượng giáo dục của các trường PTDTNT được nâng lên. Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS chuyển biến tích cực, có mặt tiến bộ. Công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS được chú trọng hơn. Thông tin, tuyên truyền vùng DTTS và miền núi phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng nhu cầu thông tin, liên lạc của nhân dân. Việc xây dựng, ban hành chính sách đối với đồng bào DTTS rất ít người đã thật sự được quan tâm. Việc xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ đối với người có uy tín trong cộng đồng được chú trọng…
Bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cũng thừa nhận một số hạn chế, bất cập trong việc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS và MN như: Đồng bào các DTTS sinh sống ở địa bàn KTXH khó khăn và đặc biệt khó khăn; ở những địa phương nghèo, chủ yếu nhận hỗ trợ ngân sách từ Trung ương, khó có thể lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chính sách dân tộc, trong khi đó ngân sách Trung ương lại chưa bố trí được nguồn vốn riêng để thực hiện một số chính sách, do vậy không đạt được mục tiêu các đề án, chính sách đã được phê duyệt; một số vấn đề di cư tự phát, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt,... giải quyết chưa hiệu quả; đời sống của một bộ phận đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn. Thu nhập bình quân của hộ đồng bào DTTS nhiều nơi chỉ bằng 40-50% bình quân thu nhập trong khu vực; tỷ lệ dân số DTTS chiếm 14,6% nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả nước.
Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng DTTS và MN tuy đã được nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp, mức độ tiếp cận các dịch vụ còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ được cấp thẻ BHYT cao nhưng tỷ lệ khám, chữa bệnh còn thấp…
Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS trong cơ quan Nhà nước các cấp có xu hướng giảm; đa số các Bộ, ngành và địa phương chưa đạt được tỷ lệ theo quy định tại Quyết định 402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Để tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định bổ sung nguồn vốn đầu tư công trung hạn để thực hiện một số đề án, chính sách đã được ban hành; đề nghị Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội tăng cường hơn nữa công tác giám sát để các cấp, các ngành thực hiện chính sách dân tộc thiết thực, hiệu quả hơn. Đồng thời, đề nghị Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường công tác giám sát, nhất là việc phân bổ nguồn lực đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, đảm bảo phát triển hài hòa giữa các miền, vùng trong cùng một địa phương.
Cần tổng kết việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số, miền núi
Báo cáo thẩm tra đánh giá 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và MN giai đoạn 2016 – 2018, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến cho biết: Hiện nay hệ thống chính sách dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng đồng bộ, toàn diện; phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã đạt được kết quả quan trọng.
Tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số giảm mỗi năm 4% (hiện còn 28,45%). Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được cải thiện hơn trước. Điểm nổi bật là an ninh, quốc phòng vùng dân tộc thiểu số, miền núi được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường và củng cố. Tuy nhiên, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội nhận thấy, trong số 15 chính sách trực tiếp, chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực xã hội như: Giáo dục, văn hóa, thông tin, chưa có nhiều chính sách về kinh tế, lao động, việc làm, phát triển hạ tầng, giải quyết đất ở, đất sản xuất, tạo sinh kế bền vững cho vùng DTTS và MN. Trong khi đây là những chính sách căn bản để giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay các chương trình, chính sách, dự án đầu tư cho vùng DTTS và MN rất nhiều, gồm 118 chính sách đang có hiệu lực, do 10 Bộ, ngành quản lý, chủ trì chỉ đạo, cùng với đó là những quy định về cơ chế, nguồn lực khác nhau gây nên khó khăn trong tổ chức thực hiện và theo dõi, tổng hợp. Trong công tác quản lý Nhà nước, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành trong triển khai, hướng dẫn thực hiện. “Báo cáo chưa phân tích, đánh giá tác động, hiệu quả, nguyên nhân hạn chế của chính sách, cả chủ quan và khách quan; trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong ban hành và tổ chức thực hiện chính sách” – ông Hà Ngọc Chiến nói.
Công tác theo dõi địa bàn, nắm bắt tình hình vùng DTTS và MN của một số Bộ, ngành và địa phương chưa sâu sát, chậm tham mưu đề xuất giải quyết những vấn đề phát sinh… Thực hiện chính sách ở các địa phương còn gặp phải những vướng mắc do phân bổ nguồn lực thiếu, giải ngân chậm, cơ chế thủ tục chưa phù hợp.
Về kết quả thực hiện giảm nghèo, Hội đồng dân tộc thống nhất đánh giá kết quả giảm nghèo giai đoạn vừa qua đã đạt các chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội cho rằng, kết quả giảm nghèo ở các vùng phụ thuộc vào cơ cấu dân cư, dân tộc. Số liệu giảm nghèo chung ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ chưa phản ánh đúng thực chất của vùng dân tộc. Chính phủ cần có số liệu phân tích bổ sung rõ hơn về thu nhập bình quân, số hộ nghèo và tỷ lệ giảm nghèo trong đồng bào dân tộc ở các khu vực; đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn, đúng thực chất mức sống, thu nhập, sinh kế, mức độ tiếp cận văn hóa, giáo dục, y tế.., của đồng bào dân tộc thiểu số; phân tích, làm rõ thực trạng của việc gia tăng các huyện nghèo thuộc diện 30a, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo trong vùng DTTS và MN.
Về đầu tư kết cấu hạ tầng, báo cáo của Chính phủ chưa có thông tin số liệu đầy đủ về kết cấu hạ tầng vùng DTTS và MN, đặc biệt là những địa bàn, khu vực còn thiếu về cơ sở hạ tầng thiết yếu. Hội đồng dân tộc của Quốc hội đề nghị Chính phủ căn cứ vào chỉ tiêu của Quyết định 1722 và mục tiêu của chương trình Nông thôn mới để đánh giá so sánh kết quả đã đạt được.
Về bảo vệ và phát triển rừng, giai đoạn 2016-2018, Chính phủ đã triển khai một số chính sách nhằm đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng, cho vay tín dụng cho hộ gia đình, tổ chức, cá nhân nhằm bảo vệ và phát triển rừng. Qua giám sát của Hội đồng Dân tộc cho thấy kết quả thực hiện giao khoán rừng rất thấp (chỉ có 11,5% số hộ DTTS được giao khoán với mức bình quân 2,13 ha/hộ; 10,7% số hộ DTTS được cấp quyền sử dụng với mức bình quân 2,7 ha/hộ).
Đối với lĩnh vực dạy nghề và giải quyết việc làm, Báo cáo cần bổ sung thông tin, số liệu cụ thể, phân tích, đánh giá đúng mức hơn thực trạng giải quyết việc làm và công tác dạy nghề ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến chỉ rõ, con số báo cáo lao động trong độ tuổi có việc làm là 8,01 triệu (chiếm 86,1%) cao hơn mặt bằng chung của cả nước (76,4%) là chưa sát thực tế, trong khi đó tình trạng thất nghiệp của thanh niên dân tộc thiểu số là 5,76%, cao hơn gấp 2,5 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của cả nước 2,34%.
Hiện nay do khu vực miền núi thiếu việc làm dẫn đến tình trạng lao động tự phát qua biên giới, lao động tự do về các trung tâm đô thị, xu hướng đi lao động ở các khu công nghiệp, hầm mỏ ngày càng nhiều. “Đây là những vấn đề mới cần được bổ sung và nghiên cứu để có những chính sách phù hợp hỗ trợ cho lao động dân tộc thiểu số” – ông Hà Ngọc Chiến nhấn mạnh.
Hội đồng Dân tộc cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo tổng kết việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số, miền núi (nhất là những chủ trương, chính sách lớn), để có cơ sở xây dựng, ban hành chính sách mới cho giai đoạn tiếp theo, khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập của việc thực hiện chính sách trong giai đoạn vừa qua.
Hằng năm, Chính phủ cân đối, bố trí nguồn lực thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số, miền núi./.
M. Thúy