Kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia góp phần quan trọng vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020

21/10/2020
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(sav.gov.vn) - Chiều 20/10/2020, theo chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội họp trực tuyến, nghe “Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020”. Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành phiên họp.

Quang cảnh phiên họp

Các chương trình mục tiêu quốc gia có nhiều  đóng góp quan trọng vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 – 2020

Thừa ủy quyền của Thủ trướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020. Theo đó, trong 5 năm qua, việc triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia đạt được nhiều kết quả nổi bật, có nhiều  đóng góp quan trọng vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 – 2020, nổi bật là: Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành và về đích trước một năm mục tiêu Quốc hội giao. Đến tháng 8/2020 có 5.350 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 60,23%), tăng 3.818 xã so với cuối năm 2015 và vượt 10,23% so với mục tiêu 5 năm; không còn xã dưới 5 tiêu chí.

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững có tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 2,75%; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 24%, vượt mục tiêu Quốc hội giao.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhận định, các chương trình mục tiêu quốc gia đã huy động được một nguồn lực rất lớn từ ngân sách Nhà nước, các chương trình, dự án, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân, thực hiện các mục tiêu về giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia góp phần quan trọng vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020.

Kinh tế nông thôn đã có hướng tăng trưởng và chuyển mạnh theo hướng công nghiệp - dịch vụ; ngành nông nghiệp đang chuyển đổi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững; hợp tác xã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, liên kiết hộ nông dân với hộ nông dân, kết nối giữa nông dân với doanh nghiệp, là tác nhân liên kiết trong chuỗi giá trị.

Hoàn thiện các thiết chế hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản ở nông thôn, khu vực khó khăn, tăng cường hỗ trợ phát triển sản xuất theo hướng đồng bộ, từng bước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, tạo cơ hội việc làm và ổn định thu nhập cho người dân vùng nông thôn.

Đảm bảo an sinh xã hội, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận ngày càng tốt hơn đến các dịch vụ cơ bản của xã hội, nhất là trong bối cảnh kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn; củng cố vững chắc hệ thống chính trị, quốc phòng - an ninh ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, tạo niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như: Công tác huy động và sử dụng nguồn lực chưa thực sự tạo được cơ chế khuyến khích những địa phương đạt kết quả tốt; Nguồn lực cân đối từ ngân sách địa phương mới chỉ tập trung cho Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Phân bổ nguồn lực chỉ dựa vào định mức, chưa dựa trên kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và kết quả sử dụng nguồn lực hằng năm; Phân cấp trong quản lý đầu tư, nhất là cấp xã còn chưa thực chất; Trong xây dựng cơ chế, chính sách quản lý, điều hành thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia vẫn còn tình trạng: chậm tiến độ; thiết kế chính sách đặc thù hỗ trợ công tác giảm nghèo chưa thực sự phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng dân tộc thiểu số; cấp tỉnh chưa quan tâm đầy đủ đến công tác ban hành các quy định về phân cấp, hướng dẫn lập kế hoạch cấp xã, quản lý và sử dụng nguồn vốn huy động khác, cơ chế lồng ghép.

Kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định cụ thể cơ chế quản lý chương trình mục tiêu quốc gia

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, căn cứ quy định của Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14, Chính phủ thấy rằng vẫn cần thiết phải xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia như là một công cụ để hỗ trợ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025; ưu tiên tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội. Trên cơ sở đó, Chính phủ xây dựng nguyên tắc và lựa chọn danh mục các chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện trong giai đoạn 2021 – 2025: Những vấn đề có tính cấp bách, liên ngành, liên vùng, có tính lan tỏa đối với phát triển kinh tế - xã hội; Mục tiêu của chương trình phải cụ thể rõ ràng, đo lường được, không trùng lặp với mục tiêu, đối tượng, phạm vi đầu tư của các chương trình khác; Chương trình có thời gian thực hiện trong 5 năm hoặc phân kỳ thực hiện cho từng giai đoạn 5 năm; Phải đảm bảo giải pháp huy động đủ nguồn lực để thực hiện và phải đảm bảo được mục tiêu phát triển bền vững, có hiệu quả.

 

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo trước Quốc hội


Giai đoạn 2021 – 2025, Chính phủ đề xuất 3 chương trình mục tiêu quốc gia gồm:

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2025.

Được biết, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Đối với hai chương trình còn lại, Chính phủ dự kiến có Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 theo trình tự được quy định tại Luật Đầu tư công.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên tắc phân bổ nguồn vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ cho các địa phương phải được sử dụng có hiệu quả, phân bổ theo nguyên tắc tập trung, định mức cụ thể, rõ ràng, minh bạch; đảm bảo có sự lồng ghép các nguồn lực khi thực hiện 03 chương trình trên một địa bàn. Trong đó đảm bảo: Ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm giải quyết các vấn đề cấp bách, hỗ trợ hộ nghèo, các nhóm dân tộc thiểu số khó khăn; ưu tiên hỗ trợ các xã phấn đấu đến năm 2025 không còn xã dưới 15 tiêu chí; đối với các địa bàn có trùng đối tượng, nội dung hỗ trợ đầu tư, thực hiện theo nguyên tắc chỉ đầu tư từ 01 chương trình và từ chương trình có định mức cao nhất; phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước phải trên cơ sở kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia hằng năm.

Chính phủ kiến nghị, trong phân bổ nguồn vốn ngân sách trung ương hỗ trợ thực hiện các chương trình được trích lập 10% dự phòng vốn nguồn ngân sách Trung ương trên tổng nguồn vốn được Quốc hội phê duyệt theo từng chương trình để đảm bảo nguồn lực hỗ trợ cho những đối tượng mới; các đề án, nhiệm vụ đặc thù, cấp bách phát sinh trong quá trình thực hiện; bổ sung, khuyến khích cho những địa phương đạt kết quả cao trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

Chính phủ đề nghị cho phép áp dụng cơ chế đặc thù trong quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025. Giao Chính phủ quy định cụ thể cơ chế quản lý chương trình mục tiêu quốc gia. Cho phép được sử dụng nguồn lực ngân sách Nhà nước hằng năm của các chương trình mục tiêu quốc gia không sử dụng hết theo niên độ ngân sách Nhà nước; nguồn thu hồi theo kết luận của Kiểm toán nhà nước để bổ sung nguồn lực cho những địa phương đạt kết quả cao trong quá trình tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc quốc gia. Giao Chính phủ quy định chi tiết cơ chế sử dụng nguồn vốn này.

Số xã đạt chuẩn nông thôn mới chiếm 60,23%, vượt mục tiêu 10,23%

Sau báo cáo của Chính phủ, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020. Theo đó Ủy ban Tài chính- Ngân sách cơ bản thống nhất với báo cáo của Chính phủ về đánh giá kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại, hạn chế. Ủy ban Tài chính- Ngân sách đề nghị Chính phủ làm rõ thêm về: Kết quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực; đổi mới trong tổ chức quản lý và thực hiện.

 

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày báo cáo thẩm tra

 
Ủy ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội đánh giá cao công tác kiểm tra, giám sát của Ban chỉ đạo các cấp thông qua  đôn đốc, chỉ đạo được thực hiện thường xuyên, cùng với đó là giám sát của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các đoàn thể chính trị, xã hội; Kiểm toán nhà nước đã tổ chức Kiểm toán chuyên đề đối với việc thực hiện CTMTQG xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.

Bên cạnh đó, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội đã thực hiện thẩm tra, giám sát theo quy định. Qua đó đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế, từ đó, kịp thời khắc phục, rút kinh nghiệm, đổi mới công tác quản lý, thực hiện các CTMTQG, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.

Về kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ Chương trình xây dựng nông thôn mới, tới tháng 9/2019, 52,4% xã đạt chuẩn nông thôn mới, không còn xã đạt dưới 5 tiêu chí, như vậy đã hoàn thành vượt mục tiêu Quốc hội giao sớm trước 01 năm. Tới tháng 8/2020, số xã đạt chuẩn nông thôn mới chiếm 60,23%, vượt mục tiêu 10,23%. Đối với Chương trình Giảm nghèo bền vững: Số hộ nghèo bình quân trong từ năm 2016-2019 giảm 1,53%/năm với 1.353.805 hộ nghèo (chiếm 58%) đã thoát nghèo. Đến hết năm 2019, kết quả thực hiện mục tiêu về giảm tỷ lệ hộ nghèo đã đạt chỉ tiêu Quốc hội giao. Đặc biệt, nhiều địa phương hạn chế được tình trạng tái nghèo.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong: Ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; Huy động và phân bổ vốn; Công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án; Cơ chế quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện CTMTQG; CTMTQG Xây dựng nông thôn mới.

 Về chủ trương, định hướng, sự cần thiết đầu tư, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Tài chính- Ngân sách cho rằng, việc tiếp tục thực hiện 2 Chương trình CTMTQG xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững là cần thiết để tiếp tục phát huy kết quả thành tựu giai đoạn trước. Có ý kiến đề nghị cân nhắc lại về sự cần thiết phải tiếp tục thực hiện 2 CTMTQG nêu trên để bảo đảm tính tập trung trong phân bổ nguồn lực cho các mục tiêu, nhiệm vụ mang tính đột phá, làm động lực phát triển nông nghiệp, nông thôn tại các khu vực khó khăn. Có ý kiến cho rằng, tại các địa bàn DTTS và miền núi thì cần lồng ghép vào trong CTMTQG phát triển vùng đồng bào DTTS và miền núi, 2 CTMTQG xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững chỉ còn thực hiện ở các khu vực ngoài khu vực triển khai CTMTQG DTTS và miền núi.

Về thực hiện chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2021-2025, hiện Chính phủ chưa trình Quốc hội xem xét phê duyệt chủ trương đầu tư 02 chương trình này trong giai đoạn 2021-2025. Trường hợp Chính phủ chưa kịp trình Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư 02 chương trình trong kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, Chính phủ cần báo cáo rõ nguyên nhân, trách nhiệm về sự chậm trễ và đề xuất phương án thực hiện chuyển tiếp trong năm 2021 để tránh gián đoạn, giảm hiệu quả thực hiện 02 chương trình.

Đa số ý kiến đề nghị Chính phủ báo cáo toàn diện các nội dung CTMTQG trong đó lưu ý nghiên cứu, hoàn thiện chính sách kết nối phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng khó khăn với vùng phát triển; chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ở vùng đồng bào DTTS và miền núi. Cần rà soát kỹ để bảo đảm tính rõ ràng, tránh chồng chéo, trùng lắp ngay từ khi xây dựng, quyết định Chủ trương đầu tư, nhất là khi đã có thêm CTMTQG về phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Về việc ban hành chuẩn nghèo, Ủy ban Tài chính- Ngân sách đề nghị sớm nghiên cứu ban hành quy định chuẩn nghèo phù hợp với định hướng phát triển kinh tế, xã hội, khả năng cân đối nguồn lực thực tế để thực hiện các chính sách giảm nghèo  giai đoạn mới 2021-2025 làm cơ sở thực hiện các chính sách giảm nghèo bền vững.

Về chính sách giảm nghèo, Ủy ban Tài chính- Ngân sách đề nghị Chính phủ rà soát, bãi bỏ một số chính sách mang tính chất “cho không”, tránh hỗ trợ trực tiếp dẫn đến tư tưởng ỷ lại, cần theo hướng chú trọng hoạt động đào tạo nghề, tạo công ăn việc làm, hỗ trợ có điều kiện nhằm bảo đảm cơ hội phát triển bình đẳng, thoát nghèo bền vững.

Cơ chế quản lý, điều hành để đảm bảo quản lý, điều hành CTMTQG thống nhất, Thủ tướng Chính phủ thành lập 1 Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia cấp trung ương ; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập 1 Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ở địa phương: Ủy ban Tài chính- Ngân sách cơ bản nhất trí việc tiếp tục thực hiện mô hình này, đồng thời đề nghị Chính phủ phân công rõ trách nhiệm của các Bộ, Sở ngành chủ trì trong việc thực hiện các chương trình.

Trong giai tới cần tiếp tục rà soát, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương, Địa phương trong thực hiện các Chương trình MTQG; Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn cho địa phương để triển khai thực hiện; Phân bổ vốn cho chương trình bảo đảm thời gian quy định, đúng đối tượng, nội dung, mục đích, có trọng điểm, tránh tình trạng bình quân chia đều. Việc bố trí vốn đối ứng tại địa phương cần đảm bảo thực hiện nghiêm túc,tránh tư tưởng ỷ lại vào ngân sách trung ương; đồng thời, có biện pháp phù hợp để huy động thêm nguồn lực khác cho các Chương trình.

Đối với 21 CTMT, đề nghị Chính phủ sớm hoàn thành việc rà soát các CTMT, xác định nội dung, đối tượng, địa bàn cụ thể, bố trí hợp lý trong nhiệm vụ của các bộ, cơ quan trung ương để tiếp tục thực hiện các nội dung thiết yếu phải tiếp tục duy trì trong giai đoạn tới; những nội dung đang thực hiện hỗ trợ cho địa phương thì nghiên cứu, lồng ghép vào CTMTQG phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào DTTS và MN.

Về đề nghị trích lập 10% dự phòng, Ủy ban nhận thấy, việc trích lập dự phòng, sử dụng và thời điểm sử dụng phải tuân thủ quy định của Luật ĐTC, theo đó Quốc hội sẽ xem xét, quyết định mức trích, thời điểm sử dụng  dự phòng chung khi quyết định Kế hoạch Đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.

Về cho phép áp dụng cơ chế đặc thù trong quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025, Ủy ban Tài chính - Ngân sách cơ bản tán thành với kiến nghị của Chính phủ. Để bảo đảm quản lý chặt chẽ, hiệu quả, minh bạch, tạo công bằng đối với các dự án khác, đề nghị Chính phủ xác định rõ đối tượng, quy mô, chính sách cơ chế đặc thù cụ thể để thể hiện thống nhất. 

Về cho phép được sử dụng nguồn lực NSNN hằng năm của các chương trình mục tiêu quốc gia không sử dụng hết; nguồn thu hồi theo kết luận của Kiểm toán Nhà nước để bổ sung nguồn lực cho những địa phương đạt kết quả cao trong quá trình tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, Ủy ban Tài chính- Ngân sách đề nghị thực hiện hủy dự toán hoặc thu hồi và cấp lại theo đúng quy định của Luật NSNN và pháp luật liên quan./.

Khánh Vy

Xem thêm »