Báo cáo tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho hay, phạm vi nghiên cứu của dự án dự kiến có chuyển mục đích sử dụng rừng giai đoạn 2021-2025 và thời kỳ 2021-2030 tại 7 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Diện tích rừng đề nghị chuyển mục đích sử dụng 1.054,63 ha, bao gồm: 111,84 ha rừng phòng hộ; 4,45 ha rừng đặc dụng; 802,91 ha rừng sản xuất; 135,43 ha rừng ngoài quy hoạch 3 loại rừng (có nguồn gốc rừng phòng hộ 14,89 ha, từ rừng đặc dụng 0,22 ha, từ rừng sản xuất 120,32 ha).
Về chuyển mục đích đất rừng, đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, theo Nghị quyết số 44/2022/QH15 xác định nhu cầu chuyển mục đích sử dụng là “đất rừng” và “đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên”; tuy nhiên, pháp luật về đất đai chỉ quy định đất trồng lúa bao gồm đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại và đất trồng lúa nương; đối với đất lâm nghiệp bao gồm đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng và đất rừng sản xuất.
Vì vậy, để thống nhất cho phù hợp với phân loại đất theo quy định của pháp luật về đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã sử dụng số liệu tổng hợp của các địa phương báo cáo về diện tích đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất để đánh giá đất rừng; đất chuyên trồng lúa nước để đánh giá đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên.
Trên cơ sở báo cáo của các địa phương có dự án đi qua và số liệu tổng hợp của Bộ Giao thông vận tải, nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất như sau: Đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên và đất trồng lúa còn lại: Dự án chiếm dụng 1.721,96 ha đất trồng lúa, bao gồm: đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên 1.537,23 ha, đất trồng lúa còn lại 184,73 ha; Đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất; Dự án chiếm dụng 1.863,94 ha, bao gồm: đất rừng phòng hộ 138,10 ha, đất rừng đặc dụng 4,61 ha, đất rừng sản xuất 1.721,23 ha trên địa bàn của 7 tỉnh là: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, để có cơ sở quyết định dự án đầu tư và triển khai các bước tiếp theo, Chính phủ kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025, với nội dung chủ yếu:
Diện tích rừng đề nghị chuyển mục đích sử dụng 1.054,63 ha, bao gồm: 111,84 ha rừng phòng hộ, 4,45 ha rừng đặc dụng, 802,91 ha rừng sản xuất, 135,43 ha rừng ngoài quy hoạch 3 loại rừng (có nguồn gốc rừng phòng hộ 14,89 ha, từ rừng đặc dụng 0,22 ha, từ rừng sản xuất 120,32 ha). Diện tích đất lâm nghiệp 1.863,94 ha, bao gồm: đất rừng phòng hộ 138,10 ha, đất rừng đặc dụng 4,61 ha, đất rừng sản xuất 1.721,23 ha. Diện tích đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên 1.721,96 ha.
Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu rõ, ngày 11/01/2022, tại Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 44/2022/QH15 về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025, trong đó, sơ bộ nhu cầu sử dụng đất của Dự án khoảng 5.481 ha bao gồm đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên khoảng 1.532 ha, đất rừng phòng hộ khoảng 110 ha, đất rừng sản xuất khoảng 1.436 ha. Khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết số 44 quy định: Giao Chính phủ hoàn chỉnh hồ sơ chuyển mục đích sử dụng đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của Dự án, trình UBTVQH xem xét, quyết định chủ trương trước khi quyết định đầu tư Dự án.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, có ý kiến cho rằng tại Nghị quyết số 44, Quốc hội không giao UBTVQH xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, tuy nhiên tại Tờ trình số 248, Chính phủ đề nghị xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng của Dự án, do đó đề nghị cân nhắc về nội dung này. Tuy nhiên, nhiều ý kiến khác cho rằng Dự án có diện tích rừng cần chuyển đổi mục đích sử dụng lớn là 1.054,63 ha, trong đó rừng phòng hộ là 111,84 ha, rừng đặc dụng 4,45 ha, rừng sản xuất 802,91 ha, ngoài quy hoạch 3 loại rừng là 145,43 ha, do đó, để bảo đảm tuân thủ quy định pháp luật về lâm nghiệp và phù hợp với tình hình thực tế thì Chính phủ trình UBTVQH là phù hợp, đúng thẩm quyền theo quy định.
Hồ sơ kèm theo Tờ trình số 248 của Chính phủ đã cơ bản đáp ứng theo quy định tại Điều 41 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp (được sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 Nghị định số 83/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ).
Về sự phù hợp đối với quy hoạch lâm nghiệp và quy hoạch sử dụng đất, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, một số ý kiến đề nghị bổ sung làm rõ hơn sự phù hợp của Dự án đối với các quy hoạch có liên quan khi các quy hoạch này vẫn đang trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt.
Mặc dù Tờ trình số 248, Chính phủ đã tiếp thu, giải trình các nội dung nêu trên, tuy nhiên, đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương cập nhật nhu cầu sử dụng đất, rừng của Dự án vào các quy hoạch có liên quan để bảo đảm chặt chẽ các cơ sở, điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất rừng, rừng, đất trồng lúa nước hai vụ cho Dự án.
Về diện tích đất rừng và đất lúa cần chuyển đổi, theo Tờ trình số 248, Dự án đang ở bước Báo cáo nghiên cứu khả thi, sau khi tính toán, chính xác lại số liệu so với Nghị quyết số 44 thì đất lâm nghiệp cần chuyển đổi là 1.863,94 ha, bao gồm: Đất rừng phòng hộ 138,10 ha (tăng 28,10 ha tương đương 25,5%), đất rừng sản xuất 1.721,23 ha (tăng 285,23 ha tương đương 20%); diện tích đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên là 1.537,23 (tăng 5,23 ha). Do đó, một số ý kiến đề nghị làm rõ hơn nguyên nhân sự chênh lệch số liệu về chiếm dụng diện tích rừng, đất rừng và đất lúa giữa bước chủ trương đầu tư đã được Quốc hội thông qua và Tờ trình số 248 về chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của Dự án.
Ngoài ra, một số ý kiến đề nghị làm rõ tác động của việc thay đổi diện tích rừng, đất rừng, đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên đối với tổng mức đầu tư Dự án và phương án phát triển đất, trồng rừng, trồng lúa thay thế đối với phần diện tích cần chuyển đổi cho Dự án theo quy định pháp luật.
Phát biểu tại phiên họp, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đề nghị: Vì đây là Dự án trọng điểm quốc gia, nên đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội sớm phê duyệt chủ trương thu hồi đất rừng để triển khai dự án. Trên cơ sở nghị quyết của UNTVQH, Bộ GTVT mới phê duyệt dự án đầu tư. "Tất cả đang trông chờ Nghị quyết của UBTVQH. Sau khi có Nghị quyết, chỉ 1 ngày là Bộ GTVT có thể phê duyệt dự án đầu tư và triển khai các công việc tiếp theo”- ông Lê Văn Thành nói. Phó Thủ tướng đề nghị, với những thay đổi nhỏ về diện tích đất rừng, đất lúa thì giao cho Chính phủ quyết định và báo cáo UBTVQH để đẩy nhanh tiến độ dự án.
Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ, UBTVQH thống nhất việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa từ hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025 với một số nội dung như sau:
Thứ nhất, thống nhất quyết định chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, đất trồng lúa hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025 theo nhiệm vụ Quốc hội giao tại khoản 2, điều 3 của Nghị quyết số 44/2022/QH15.
Thứ hai, thống nhất về nguyên tắc cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, đất trồng lúa hai vụ trở lên tăng thêm so với Nghị quyết 44 và chuyển đổi mục đích sử dụng rừng phòng hộ để kịp thời triển khai việc thực hiện đúng tiến độ. Đồng thời đề nghị Chính phủ hoàn thiện hồ sơ để báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ Tư, bảo đảm bảo đúng quy định về ủy quyền.
Thứ ba, việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất rừng ngoài các nội dung nêu tại điểm 1, điểm 2, các nội dung khác phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (nếu có) phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và Chính phủ phải báo cáo UBTVQH theo quy định.
Phó Chủ tịch Quốc hội giao Ủy ban Kinh tế chủ trì, phối hợp với Ủy ban Pháp luật và Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu ý kiến của UBTVQH để hoàn chỉnh Nghị quyết, xin ý kiến UBTVQH và trình Chủ tịch Quốc hội ký ban hành./.
Phương Ngọc