Quốc hội thảo luận ở hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023

29/10/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(sav.gov.vn) - Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XV, trong 02 ngày 27 và 28/10/2022, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội thảo luận ở hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023.

Toàn cảnh phiên thảo luận tại Hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023

Quốc hội dành 1 ngày 27 và 0,5 ngày 28/10/2022 để tập trung thảo luận về kinh tế xã hội và ngân sách Nhà nước (NSNN), 0,5 ngày 28/10/2022 tiếp tục thảo luận về kinh tế xã hội, NSNN, cùng với việc tổng kết Nghị quyết 54 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. 

Ngày 27/10/2022, Quốc hội thảo luận ở hội trường về: Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023; tình hình thực hiện NSNN năm 2022, dự toán NSNN, kế hoạch đầu tư công vốn NSNN, phương án phân bổ ngân sách Trung ương (NSTW) năm 2023, trong đó có Kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm 2023-2025, tình hình thực hiện kế hoạch tài chính năm 2022, dự kiến kế hoạch tài chính năm 2023 của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Trung ương quản lý.
 
Nhiều vấn đề nổi cộm trong đời sống kinh tế - xã hội được các đại biểu thẳng thắn chỉ ra

Tại phiên thảo luận ngày 27/10/2022, đã có 42 đại biểu Quốc hội (ĐBQH) phát biểu, 07 ĐBQH tranh luận. Đa số ý kiến ĐBQH cơ bản nhất trí với Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo của các Ủy ban của Quốc hội và cho rằng: Các báo cáo được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, đầy đủ; nội dung báo cáo đã bám sát các nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Các ý kiến đại biểu đánh giá cao sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành, giám sát hiệu quả, tích cực của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), các cơ quan của Quốc hội, sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, linh hoạt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự ủng hộ của người dân và cộng đồng doanh nghiệp… do đó việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, NSNN đã đạt được những kết quả tích cực. Việc ban hành kịp thời và triển khai bước đầu có hiệu quả các Nghị quyết của Quốc hội, nhất là Nghị quyết số 43/2022/QH15 và các Nghị quyết chuyên đề khác của Quốc hội, UBTVQH, cùng với Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ đã giúp kinh tế - xã hội tiếp tục phục hồi mạnh mẽ với nhiều kết quả đạt được khá cao.
 
Các ĐBQH tập trung cho ý kiến vào các nội dung: Việc quản lý và sử dụng Quỹ Bảo hiểm xã hội; cơ chế tự chủ tài chính của cơ sở y tế, giáo dục công lập; vấn đề bảo vệ di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế; việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, vùng đặc biệt khó khăn; thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; việc giải ngân vốn đầu tư công; tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế, xăng dầu; việc triển khai chính sách bảo hiểm y tế ở một số khu vực; vấn đề nợ, đọng thanh toán bảo hiểm y tế; tình trạng công chức, viên chức trong lĩnh vực y tế, giáo dục nghỉ việc, chuyển việc; vấn đề tinh giản biên chế, tăng học phí trong ngành giáo dục; chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội; công tác an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; thực trạng biến đối khí hậu; tình trạng cán bộ, công chức đùn đẩy, né tránh trách nhiệm khi thực thi công vụ; vấn đề phát triển ngành nông nghiệp; trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai; xử lý các dự án kém hiệu quả; việc đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh; vấn đề thu gom, xử lý rác thải, ô nhiễm môi trường đô thị; việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng; công tác xây dựng thể chế đối với ngành công nghiệp hóa chất...
 

Tổng Kiểm toán nhà nước Ngô Văn Tuấn dự phiên thảo luận tại Hội trường
 
Ngoài ra, các ĐBQH đã đề xuất nhiều nhiệm vụ, giải pháp về kinh tế - xã hội, NSNN trong thời gian tới, như: Chính phủ cần chủ động ứng phó với tình trạng lạm phát; công khai, linh hoạt các kịch bản điều hành lãi suất; dự báo tốt hơn về thị trường tài chính, tiền tệ; có giải pháp tránh thâm hụt cán cân thương mại; thực hiện lộ trình cải cách tiền lương; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tránh đứt gãy chuỗi cung ứng xăng dầu; cải thiện môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ đối với ngành y tế, giáo dục; hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; xây dựng hạ tầng công nghệ số; công khai, minh bạch trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Các ý kiến đề nghị Chính phủ cần tiếp tục triển khai chính sách ưu đãi đối với lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; tăng cường các giải pháp chống ngập lụt, xói lở, biến đổi khí hậu; thực hiện việc gỡ bỏ thẻ vàng của Ủy ban Châu Âu đối với thủy sản Việt Nam; rà soát, ban hành cơ chế, chính sách phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới…

Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Giáo dục và Đào tạo, Y tế giải trình về tình trạng công chức, viên chức, nhân viên y tế, giáo viên nghỉ việc

Giải trình và làm rõ một số vấn đề các ĐBQH quan tâm về vấn đề công chức, viên chức nghỉ việc trong thời gian qua, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho rằng người lao động có cơ hội bình đẳng trên thị trường lao động, được tự do lựa chọn việc làm, tự do dịch chuyển trên thị trường lao động. Việc công chức, viên chức dịch chuyển từ khu vực công sang khu vực tư là yếu tố khách quan trên cơ sở điều tiết của thị trường lao động, theo quy luật tất yếu của kinh tế thị trường, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta. Đồng thời tạo động lực để thúc đẩy nhanh hơn sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa thị trường lao động ở khu vực công và khu vực tư.

Trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển các thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có dịch vụ y tế, giáo dục ngoài công lập, tạo cơ hội cho người lao động ra vào trong khu vực công và khu vực tư thường xuyên theo quy luật cung cầu lao động cũng như yêu cầu xu thế của tự chủ, xã hội hóa khu vực sự nghiệp công. “Để giữ chân công chức, viên chức ở lại khu vực công, Bộ Nội vụ xác định cần trung cải cách đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương trong thời gian tới” – Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhấn mạnh. 
 
Giải trình vấn đề ĐBQH nêu liên quan tới việc triển khai thực hiện chính sách về bảo hiểm y tế đối với người dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo Quyết định số 861 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, tại Quyết định số 861, các xã khu vực 3, khu vực 2 đã được phê duyệt tại Quyết định này nếu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới sẽ được xác định là xã khu vực 1 và thôi hưởng các chính sách áp dụng đối với các xã khu vực 3, khu vực 2 kể từ ngày Quyết định có hiệu lực. Trong quá trình triển khai thực hiện, các chính sách liên quan đến bảo hiểm y tế của người dân tại khu vực này cũng bị ảnh hưởng. Nhận thức được vấn đề khó khăn, vướng mắc của người dân, Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ cũng đã chỉ đạo Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành rà soát những bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện. Đến thời điểm này, những vướng mắc liên quan tới việc thực hiện chế độ bảo hiểm y tế đối với người dân trong Quyết định 861 đã được tổng hợp, điều chỉnh.
 
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan giải trình các ý kiến liên quan đến lĩnh vực y tế

Đối với tình trạng nợ đọng bảo hiểm y tế, Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết, có những vướng mắc liên quan đến việc triển khai thực hiện Luật bảo hiểm y tế và Nghị định 146 còn quy định chưa thống nhất. Chính vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện liên quan đến việc thanh toán chi phí khám, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng và mức hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế theo phương thức giá dịch vụ y tế đang có thắc mắc. Vướng mắc liên quan đến việc áp dụng tổng mức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ cũng đã giao cho Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành và Bảo hiểm xã hội Việt Nam sửa đổi Nghị định 146, hiện đang được Bộ Tư pháp thẩm định. Trước mắt, Bộ Y tế đã trình Chính phủ nghị quyết về việc đảm bảo thuốc, trang thiết bị y tế, thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế để giải quyết khó khăn trong thanh toán trong năm 2021 và hiện nay. 

Về tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế để đảm bảo cung ứng thuốc, thiết bị, vật tư y tế tại các cơ sở y tế, Bộ trưởng cho biết, vấn đề thiếu thuốc liên quan đến việc đăng ký lưu hành các sản phẩm thuốc và trang thiết bị y tế và việc đấu thầu mua sắm trang thiết bị y tế của các cơ sở y tế. Đối với việc đăng ký lưu hành thuốc, thiết bị y tế, Chính phủ cũng đã báo cáo UBTVQH ban hành Nghị quyết số 12 để giải quyết các vấn đề này. Đến thời điểm hiện nay, Bộ Y tế cũng đã công bố danh mục trên 10.000 thuốc hết hạn hiệu lực, tiếp tục được cấp giấy lưu hành đến ngày 31/12/2022, nên đã cơ bản đảm bảo được nguồn cung ứng thuốc trên thị trường của năm 2022, đáp  ứng kịp thời thuốc phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh của Nhân dân và phòng, chống dịch.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế cũng đang phối hợp với các Bộ, ngành sửa đổi Luật Dược và các Nghị định, Thông tư có liên quan trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế và các nội dung liên quan đến việc cấp đăng ký lưu hành, đấu thầu tập trung quốc gia. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên được phân công làm công tác đấu thầu và công bố rộng rãi kết quả đấu thầu, thành lập tổ công tác để hỗ trợ cho công tác đấu thầu…

Bộ trưởng Bộ Y tế cũng nêu một số giải pháp đảm bảo nguồn nhân lực y tế, theo đó, đối với cả các chính sách liên quan hỗ trợ cho nhân viên y tế, Bộ Y tế đã trình Chính phủ sửa đổi Nghị định 56 về hỗ trợ thì mức phụ cấp đối với nhân viên y tế cơ sở, sở y tế dự phòng. Hiện nghị định này đang được trình Chính phủ. Các chính sách để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giúp tăng nguồn nhân lực y tế, Bộ Y tế sẽ báo cáo bổ sung trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp.
 
Phát biểu làm rõ ý kiến các ĐBQH tại phiên họp về lĩnh vực giáo dục, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết, trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nhận được hơn 200 ý kiến của cử tri gứi tới, trong đó đều bày tỏ sự băn khoăn, lo lắng giữa việc ngành thiếu giáo viên và hiện tượng giáo viên bỏ việc và chuyển việc. “Vấn đề thiếu giáo viên và vấn đề giáo viên nghỉ việc, chuyển việc là vấn đề này khác nhau nhưng cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Ngành Giáo dục đã phối hợp với ngành Nội vụ tính toán và xác định số lượng giáo viên thiếu cần phải bù đắp, bổ sung từ nay tới năm 2026 lên đến 107.000 giáo viên. Con số này có thể còn biến động trước tình hình giáo viên nghỉ việc. Con số này tính toán cần bù đắp để vừa đảm bảo duy trì hoạt động dạy và học bình thường, hơn thế là để tính toán thực hiện các mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng. Một trong ba yếu tố rất quan trọng để nâng cao chất lượng là nhân tố giáo viên, cơ sở vật chất và chương trình, phương pháp” – Bộ trưởng Bộ Giáo dục lý giải.

Về nguyên nhân của tình trạng thiếu giáo viên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng nhiều năm về trước đã không đủ do số lượng bỏ việc, giảng viên nhiều năm không tuyển, tuyển nhỏ hơn số nghỉ hưu do thừa, thiếu cục bộ, khó điều tiết và thiếu thiếu do tăng dân số tự nhiên. Từ tháng 9/2015, tổng số học sinh khi bắt đầu năm học của năm 2015 là trên 19.000.000 học sinh. Nhưng đến tháng 9/2022, khi bắt đầu năm học là trên 23.000.000 học sinh. Trong khi đó, số giáo viên vào tháng 9/2015 có 1.156.000 giáo viên cho bậc mầm non đến phổ thông. Đến thời điểm tháng 9/2022 có 1.227.000 giáo viên. Có thể thấy, số giáo viên nhiều hơn 100.000 trong khi số học sinh đã tăng trên 3.000.000. Bộ trưởng cho rằng đây là tình trạng thiếu do vấn đề tăng số học sinh do tăng dân số tự nhiên. 

Bên cạnh đó, tình trạng thiếu giáo viên do biến động dồn dịch về dân số ở một số vùng, miền dồn về các thành phố lớn hoặc các khu công nghiệp; do vấn đề dịch bệnh tác động đến các trường mầm non phải đóng cửa, đặc biệt là nhóm trẻ tư thục và thiếu do nhu cầu để thực hiện phổ cập mầm non bậc năm tuổi thiếu; thiếu do việc tăng số buổi học từ một buổi lên hai buổi một ngày và do chuẩn về mặt tỷ lệ giáo viên trên học sinh; tỷ lệ số học sinh trên lớp cần đảm bảo chuẩn 35 giáo viên cho bậc tiểu học và 45 học sinh trên lớp của bậc trung học. Chuẩn này đã được xác định từ năm 2010 và đến năm 2019. Có thể nói, muốn nâng cao chất lượng thì không thể duy trì số lượng học sinh quá lớn trên lớp.

Về giải pháp, vừa qua Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ đã duyệt và giao cho ngành Giáo dục 65.000 chỉ tiêu và sẽ tuyển dần trong từ nay đến năm 2026. Riêng năm 2022 được duyệt 27.850 chỉ tiêu, các Sở Nội vụ của các tỉnh phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo cùng các đơn vị đã bắt đầu công việc tuyển dụng giáo viên. Ngoài chỉ tiêu mới, các tỉnh, thành tuy thiếu chỉ tiêu nhưng vẫn đang tồn đọng trên 10.000 chỉ tiêu từ các năm cũ vẫn chưa tuyển được. Do đó, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đề nghị các địa phương vừa tuyển số mới, vừa tiếp tục tuyển số cũ để đáp ứng được nhu cầu.
 
Các đại biểu Quốc hội góp ý kiến về giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước

Trong ngày 28/10/2022, tại phiên thảo luận ở hội trường đã có 43 ĐBQH phát biểu, 01 đại biểu tranh luận. Các ý kiến ĐBQH tập trung cho ý kiến về các nội dung: Vấn đề tự chủ của các bệnh viện; nguồn nhân lực, chế độ lương, phụ cấp đối với ngành y tế; việc thanh toán chi phí khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế; bạo lực học đường, bạo lực gia đình; tình trạng thiếu giáo viên ở miền núi, vùng sâu vùng xa; ảnh hưởng của mạng xã hội trong giới trẻ; việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới; tình hình thu chi ngân sách năm 2022, dự toán năm 2023; việc điều hành KT-XH những tháng cuối năm 2022, đầu năm, 2023; hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng; việc triển khai 3 chương trình mục tiêu quốc gia; đầu tư, nâng cấp các tuyến đường, công trình điện, viễn thông ở miền núi, biên giới; tình trạng lãng phí đất đai; nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân; việc xử lý các dự án đầu tư thua lỗ; đổi mới và hoàn thiện thể chế; kỷ luật hành chính, kỷ cương công vụ; việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng…

Nhằm đạt được các chỉ tiêu đã đề ra trong thời gian tới, các ĐBQH đề xuất Chính phủ triển khai một số giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng thiếu thuốc, thiết bị, vật tư y tế; có chính sách phù hợp đối với ngành y tế, giáo dục; triển khai việc cải cách tiền lương; hoàn thành giải ngân vốn hỗ trợ chương trình phục hồi phát triển kinh tế, các chương trình mục tiêu quốc gia; có giải pháp kiềm chế lạm phát, khơi thông dòng vốn; triển khai việc cho thuê, mua nhà ở cho người có thu nhập thấp; định hướng việc sử dụng mạng xã hội an toàn, hiệu quả; giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; đầu tư hỗ trợ cho các địa phương phát triển nông nghiệp; có chính sách phát triển toàn diện về văn hóa đi đôi với phát triển kinh tế; tạo điều kiện cho các tỉnh Tây Nguyên phát triển năng lượng tái tạo, cây dược liệu; điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất; đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất lao động, chất lượng đào tạo nghề; sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức…

Cho ý kiến về việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54/2017/QH14 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh, các ý kiến các ĐBQH cho rằng, việc ban hành Nghị quyết là quyết sách đúng đắn của Quốc hội, đã phát huy được một số cơ chế, chính sách rất cụ thể, hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh; thống nhất chủ trương cho phép kéo dài việc thực hiện Nghị quyết đến khi Chính phủ đề xuất cơ chế mới vào kỳ họp Quốc hội cuối năm sau vào tháng 10/2023.

Trong quá trình thảo luận, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh; Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung; Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc; Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã giải trình, làm rõ một số vấn đề ĐBQH quan tâm.

Những vấn đề về đất đai, xăng dầu, ngân hàng, chính sách tài khoá, phát triển kinh tế xã hội được các Bộ trưởng làm rõ

Giải trình ý kiến của các ĐBQH về công tác quản lý đất đai, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà khẳng định, đây là vấn đề hết sức quan trọng, còn nhiều tồn tại, bất cập. Khi Trung ương thông qua Nghị quyết 18 về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao và trong Báo cáo tổng kết về Luật Đất đai (sửa đổi) đã nêu rõ các tồn tại, yếu kém và được ĐBQH chỉ ra tại phiên họp này. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng lãng phí đất đai, như chậm giải phóng mặt bằng, quy hoạch thay đổi, các nhà đầu tư kém năng lực và pháp luật đất đai, pháp luật liên quan có sự chồng chéo…  
 
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà giải trình về những tồn tại trong công tác quản lý đất đai

Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, việc sửa đổi Luật Đất đai sẽ tiếp thu toàn bộ ý kiến của các ĐBQH, trong đó, từ nay đến năm 2024 nên ban hành các Nghị quyết của Quốc hội, hoặc Nghị định của Chính phủ và các vấn đề liên quan tại địa phương, theo thẩm quyền đưa ra cơ chế giải quyết những vấn đề tồn tại, vướng mắc phổ biến hiện nay đối với 4 tỉnh, thành phố và sau đó tính toán triển khai đối với các địa phương khác trong cả nước. Chủ trương nhất quán là bám sát nguyên tắc không làm thất thoát tài sản của nhà nước, không hợp thức hóa những sai phạm. Việc sửa đổi Luật Đất đai lần này sẽ tập trung vào các công cụ như quy hoạch, kế hoạch, định giá và hầu hết các phương thức giao đất là đấu thầu và đấu giá để đảm bảo công khai, minh bạch…

Giải trình về các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định đây vấn đề hết sức gay gắt, phức tạp và trở thành vấn đề sống còn. Vì vậy, Việt Nam đã thể hiện cam kết khẳng định trách nhiệm tại Hội nghị biến đổi khí hậu, đó là một con đường để Việt Nam vượt qua thách thức của chính mình. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có Luật Khí tượng thủy văn, Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định của Chính phủ về giảm phát thải, Sơ đồ điện VIII theo hướng cơ cấu năng lượng tái tạo. Ngoài ra, Việt Nam cũng đang triển khai các chính sách chuyển đổi xanh, kinh tế carbon thấp, ưu tiên triển khai các dự án xanh…
 
Phát biểu giải trình làm rõ một số nội dung các ĐBQH nêu tại phiên thảo luận về một số vấn đề thuộc trách nhiệm của ngành Công thương, đặc biệt là tình hình cung ứng xăng dầu trên phạm vi cả nước, nhất là tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định xăng dầu là vật tư chiến lược, có ý nghĩa sống còn của mọi nền kinh tế, vấn đề khủng hoảng năng lượng đã, đang và sẽ ngày càng trở nên trầm trọng trong phạm vi toàn cầu. Ở nước ta, theo quy định hiện hành, vấn đề quản lý cung ứng, kinh doanh xăng dầu được giao cho 7 Bộ, ngành, cơ quan chức năng và chính quyền 63 tỉnh, thành phố thực hiện. Để làm tốt công tác này, cần có sự hợp tác chặt chẽ, nhuần nhuyễn, hiệu quả, nhất là trong bối cảnh có nhiều biến động.

Bộ Công Thương được giao nhiệm vụ chính là lập kế hoạch tạo nguồn cung ứng, cùng chính quyền địa phương quản lý hệ thống kinh doanh xăng dầu trên cả nước, để xảy ra hiện tượng thiếu hàng cục bộ ở hệ thống phân phối, thương nhân phân phối và cửa hàng bán lẻ ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam là điều rất đáng tiếc và bất thường. Về giải pháp khắc phục tình trạng này trong thời gian tới, Bộ trưởng cho biết sẽ thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Tập trung chỉ đạo hướng dẫn các doanh nghiệp đầu mối, kinh doanh phân phối chia sẻ nguồn cung trong dự trữ của mình để kịp thời chi viện, ứng cứu trong điều hành; phối hợp với Ngân hàng Nhà nước kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu về tiếp cận nguồn vốn bảo lãnh tín dụng, đây được xem là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp xăng dầu có thể tồn tại, phát huy vai trò quan trọng của mình trong cung ứng cho xã hội cho mặt hàng đặc biệt này. Để doanh nghiệp xăng dầu không lỗ và có lỗ thì cũng trong khả năng chịu được ở thời điểm thị trường xăng dầu có nhiều biến động,  Bộ Công thương sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành chức năng tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ và cùng các cơ quan chức năng tiếp tục sử dụng công cụ thuế, phí, quỹ xăng dầu và chính sách an sinh khi cần thiết để điều hành giá bán lẻ xăng dầu phù hợp với biến động giá thế giới, đáp ứng mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định an sinh xã hội.

Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai phần mềm quản lý, phân phối kinh doanh xăng, dầu thống nhất trực tiếp từ Bộ Công Thương đến các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp đầu mối và thực hiện phân phối; từ các tỉnh, thành phố đến các đại lý bán lẻ trong cả nước nhằm bảo đảm tính khách quan, chính xác, minh bạch, kịp thời. Khẩn trương triển khai được rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh xăng dầu.
 
Giải trình, làm rõ một số vấn đề các ĐBQH quan tâm về lĩnh vực tiền tệ, hoạt động của ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, về điều hành lãi suất tín dụng và tỷ giá, bối cảnh năm 2022 có nhiều khó khăn hơn nhiều so với những đánh giá vào cuối năm 2021, xu hướng lạm phát kéo dài hiển hiện ở khắp các nước trên thế giới, FED đã tăng lãi suất cao và dự kiến sẽ vẫn tiếp tục ở mức cao, đồng đô la Mỹ tăng mạnh khiến nhiều đồng tiền khác suy giảm. Những diễn biến như vậy khiến Ngân hàng Trung ương các nước trên thế giới đều gặp khó khăn. Trong nước, diễn biến của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản, chứng khoán tác động mạnh đến hoạt động tiền tệ và ngân hàng. Trong khi đó, chính sách tiền tệ được giao nhiều nhiệm vụ, đa mục tiêu. Ngay trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng cao, Ngân hàng Nhà nước vẫn được giao nhiệm vụ ghìm giữ lãi suất, đây thực sự là việc khó khăn, thách thức.

Trong 9 tháng đầu năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô tiền tệ và điều hành linh hoạt, đồng bộ với liều lượng vào các thời điểm hợp lý. Qua đó góp phần kiểm soát lạm phát ở mức bình quân 9 tháng là 2,73%, năm 2022 ước đạt dưới 4%. Đây là mức thấp hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới, là yếu tố góp phần cho tăng trưởng kinh tế đạt mức dự kiến 8% cho cả năm 2022.

Nhấn mạnh giải pháp ứng phó với những biến động trong chính sách kinh tế vĩ mô và tiền tệ, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng phải đánh giá tại từng thời điểm, tại từng giai đoạn để xác định những mục tiêu trọng tâm, trọng điểm, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, phải cân đối giữa việc ổn định thị trường ngoại hối, tỷ giá tăng cao…

Liên quan đến vấn đề tháo gỡ khó khăn cung ứng xăng dầu, Ngân hàng Nhà nước cũng đề nghị Bộ Công thương phải có đánh giá chi tiết, cụ thể, phân tích những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khan hiếm, rối loạn cung ứng và có những cái giải pháp phù hợp. Về phía hoạt động tín dụng của ngân hàng, trong điều hành, Ngân hàng Nhà nước rất quan tâm đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó có kinh doanh xăng dầu; đồng thời đã có công văn gửi các tổ chức tín dụng phải đáp ứng cho lĩnh vực kinh doanh này.

Về Chương trình hỗ trợ lãi suất 2%, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành ban hành Nghị định, thông tư hướng dẫn, tuy nhiên, về thực tiễn, số lượng hỗ trợ còn ít, sự giám sát từ sớm từ xa, những phân tích, đánh giá nguyên nhân của các đại biểu Quốc hội là hoàn toàn chính xác. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp cùng các Bộ, ngành tiến hành đánh giá, khảo sát trong thời gian tới và báo cáo tổng thể với Chính phủ và Quốc hội.
 
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc giải trình về chính sách tài khóa năm 2022

Giải trình những vấn đề ĐBQH nêu về chính sách tài khoá, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, trong năm qua chính sách tài khóa đã và đang là trụ cột của nền kinh tế. Trong đó, dù năm năm qua thực hiện chính sách giảm thuế nhiều nhưng thu nội địa tăng trưởng 9,8%, giảm chi thường xuyên 10% nhờ thực hiện nhiều giải pháp, có cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ trong thu ngân sách…

Về dự toán ngân sách năm 2023, Bộ trưởng Bộ Tài chính làm rõ, năm 2023 sẽ là năm tiềm ẩn nhiều khó khăn như giá nguyên vật liệu trong nước tăng, dầu xăng khó khăn, lãi suất tiền gửi và tiền vay trong nước đều tăng cao, room tín dụng thắt chặt và thị trường vốn khó khăn. Đặc biệt là lạm phát và lãi suất thế giới tăng cao tác động mạnh đến điều hành kinh tế - xã hội nước ta, tác động đến sản xuất kinh doanh.

Để đảm bảo thận trọng, chủ động và chắc chắn trong điều hành ngân sách thì dự toán ngân sách đặt ra mức tăng thấp. Ngoài ra, trước ý kiến của nhiều đại biểu cho rằng mức bội chi thấp, Bộ trưởng Bộ Tài chính làm rõ trong bối cảnh hiện nay mức bội chi đề ra là hợp lý. Nếu nâng bội chi lên cao có nghĩa là phải đi vay mà đi vay trong giai đoạn này thì hiệu quả sẽ không cao.

Về trái phiếu doanh nghiệp, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết trong thời gian tới sẽ đề xuất sửa Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các nghị định liên quan để kiểm soát một cách chặt chẽ, minh bạch và cũng là tạo ra một nguồn vốn trung và dài hạn để giúp cho việc phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng giải trình cho biết một số giải pháp trong điều hành giá xăng dầu, giá thuốc và vật tư y tế. Theo đó tập trung rà soát để kịp thời sửa đổi, hoàn thiện các quy định liên quan.

Giải trình về phát triển kinh tế xã hội của năm 2022, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, bên cạnh những kết quả đã đạt được từ đầu năm 2022 đến nay, nền kinh tế còn nổi lên một số tồn tại, hạn chế, bất cập. Đó là chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, chính sách tài khóa, tiền tệ, quản lý điều hành xăng dầu, thiếu thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế, giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, nhất là 3 Chương trình mục tiêu quốc gia… Cùng với giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong ngắn hạn là những vấn đề trong trung, dài hạn như tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh…

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, những  khó khăn, thách thức trong thời gian tới là rất lớn với nhiều yếu tố bất định hơn, phức tạp hơn, tác động nhanh hơn, mạnh hơn, toàn diện hơn. Vì vậy, chúng ta tuyệt đối không được thỏa mãn, chủ quan lơ là, đặc biệt là những yếu tố tác động trực tiếp đến kinh tế vĩ mô, lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn…

Tiếp thu, ghi nhận các ý kiến đóng góp của ĐBQH, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, về phần Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan liên quan để tiếp tục theo dõi chặt chẽ, nghiên cứu kịp thời, đề xuất các giải pháp trong cái thời gian tới.

Bộ trưởng đã giải trình thêm về tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, trong đó khẳng định đây là nội dung quan trọng, then chốt để thúc đẩy tăng trưởng, phục hồi, phát triển kinh tế và được các đại biểu và cử tri cả nước quan tâm. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành rất nhiều Nghị quyết, công điện, văn bản để đôn đốc, chỉ đạo, triển khai, tổ chức 3 hội trực tuyến, 6 tổ công tác. Kết quả tuy có thấp hơn khoảng 1 điểm phần trăm nhưng về giá trị tuyệt đối thì đã thực hiện cao hơn 40.000 tỷ đồng, tức là tăng 16%. 

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã báo cáo nguyên nhân khiến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt như mong muốn, trong đó 76,5% vốn NSNN là do địa phương quản lý và tổ chức thực hiện. Bộ trưởng đề nghị nâng cao vai trò của Hội đồng nhân dân và các đại biểu Quốc hội trong việc giám sát từ khâu lựa chọn dự án, chuẩn bị đầu tư đến giải phóng mặt bằng và tổ chức thi công.

Đối với công tác giải phóng mặt bằng, Bộ trưởng kiến nghị nghiên cứu sửa ngay trong Luật Đất đai theo hướng cho thực hiện một số hành động trước như kiểm đếm, đo đạc, khảo sát khi chúng ta đã có quy hoạch và có chủ trương đầu tư, như vậy sẽ giảm được 6 đến 8 tháng về tiến độ triển khai.

Về Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội, Bộ trưởng khẳng định đây là chương trình rất lớn và lần đầu tiên thực hiện quy mô lớn đòi hỏi phải tiết kiệm, hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí và trục lợi vì vậy phải ban hành nhiều chính sách để quản lý. Thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiếp tục đẩy nhanh hơn triển khai chương trình này./.

Khánh Vy

Xem thêm »