31/01/2023
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong việc kiềm chế lạm phátTS. Mai Vinh, Trường Đào tạo và Bồi dường nghiệp vụ kiểm toánMột số vấn đề lý luận chung về lạm phát
Lạm phát gắn liền với nền kinh tế thị trường, nó là hệ quả của một chu kỳ tăng trưởng kinh tế mất cân đối cung - cầu, làm sai lệch thước đo giá trị hàng hoá, được biểu hiện bằng sự tăng lớn trong mức giá chung. Trong một nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, lạm phát là một biểu hiện bất thường mang tính quy luật vốn có của cơ chế kinh tế. Lạm phát có tác động đến quá trình phân phối thu nhập, của cải trong toàn xã hội; tác động đến hiệu quả kinh tế bằng việc làm sai lệch giá trị đó là thước đo tiền tệ, tạo nên tâm lý trong cộng đồng dân cư, giảm nhu cầu cất trữ tiền; các doanh nghiệp quản lý tiền cẩn trọng hơn, do đó các nguồn lực thực tế được ưu tiên đối phó với lạm phát thay cho nhu cầu tiêu dùng và đầu tư; lạm phát cũng đồng thời làm tăng thuế suất trung bình của hàng hoá và thu nhập, cho dù chính phủ không cần thiết phải ban hành các văn bản điều chỉnh thuế suất... Nếu không có giải pháp kiềm chế lạm phát, để lạm phát kéo dài, ngày một gia tăng thì nó có thể làm sụp đổ một nền kinh tế. Do đó các nhà kinh tế cần dự báo chính xác và đề ra các giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng quốc gia để kiềm chế lạm phát có hiệu quả.
Theo Milton Friedman: "lạm phát luôn luôn và ở bất cứ đâu, nó là hiện tượng của tiền tệ". Quan điểm này chỉ ra khi một đất nước có tỷ lệ lạm phát cao và duy trì trong một thời gian nhất định thì ở đó tỷ lệ tăng cung tiền rất lớn. Nếu như lạm phát được định nghĩa là sự tăng nhanh và liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế thì hầu hết các nhà kinh tế thuộc trường phái trọng tiền và các nhà kinh tế thuộc trường phái Keyne đều đồng ý với Friedman: Nguyên nhân duy nhất gây ra lạm phát là tiền. Nếu xét biểu hiện bên ngoài thì có thể lạm phát do thâm hụt ngân sách trong một thời gian dài gây nên, nhưng trong trường hợp này lạm phát chỉ sảy ra khi chính phủ phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp bội chi. Như vậy xét về mặt bản chất thì lạm phát cũng chính do tiền gây ra.
Diễn biến của lạm phát theo hai khuynh hướng là giảm phát và lạm phát, nguyên nhân gây nên giảm phát là do lao động và vốn bị thiển dụng cao. Còn lạm phát thường biểu hiện ở ba mức độ, là (i) lạm phát vừa phải là đặc trưng của giá cả tăng chậm và có thể dự đoán được với tỷ lệ một chữ số/năm; (ii) lạm phát phi mã là tỷ lệ lạm phát tăng từ hai, ba chữ số/năm, tiền mất giá dẫn đến giá cả hàng hoá tăng cao, đe dọa sự tồn tại của thị trường tài chính; (iii) siêu lạm phát, đó là bước tiếp theo của lạm phát phi mã, giá có thể tăng hàng triệu, tỷ lần/năm.
Lạm phát được sinh ra từ sự vận động của bản thân nền kinh tế, trong điều kiện lạm phát vừa phải, tức là nền kinh tế đang phát triển bình thường, giữ được các mối quan hệ tỷ lệ cân đối với sản lượng và lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế, đây là mối quan hệ tạm thời thiếu bền vững, nhưng không thể tồn tại trong một thời gian dài. Các mối quan hệ này bị phá vỡ do sự vận động của các quan hệ kinh tế, như tập trung các nguồn lực, vốn, lao động vào đầu tư thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động từ đó làm tăng tỷ lệ lạm phát. Để giảm lạm phát, chúng ta phải cắt giảm đầu tư, tức là giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng lãi suất tiền vay để giảm tiền trong lưu thông; giải pháp này cũng đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ thất nghiệp, dẫn đến thời kỳ nền kinh tế sẽ bị đình trệ, suy thóai. Kỳ vọng của mọi quốc gia là sự lựa chọn tỷ lệ thất nghiệp thích hợp sao cho vừa bảo đảm tốc độ tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo việc làm đầy đủ cho người lao động và gía cả ổn định, nhưng trong thực tế đạt được điều này là tương đối khó, do hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi quốc gia luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố cạnh tranh từ nội tại nền kinh tế và trong từng lĩnh vực với các thành phần kinh tế khác nhau; sự chống đối của các giai tầng trong xã hội, giữa giới chủ và công nhân lao động; chiến tranh, dịch bệnh và cả các mối quan hệ kinh tế, chính trị đa phương, song phương giữa các quốc gia có nền kinh tế phát triển... Như vậy, trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, lạm phát không chỉ dừng lại ở các nguyên nhân nêu trên, mà nó còn chịu sự tác động bởi một số yếu tố phi kinh tế, làm nảy sinh các hình thức lạm phát, như (i) lạm phát quán tính là do nền kinh tế hiện đại có tính ỳ cao, tức là nó sẽ giữ nguyên tỷ lệ lạm phát cho tới khi chính bản thân nền kinh tế thay đổi làm cho lạm phát thay đổi theo. Thực tế lạm phát không giữ được trạng thái cố định trong một thời gian dài do làm thay đổi tổng cầu, tỷ giá...đẩy lạm phát lên cao hoặc xuống thấp tạo nên cầu kéo và chi phí đẩy. Muốn giảm lạm phát quán tính, phải giảm sản lượng và tăng tỷ lệ thất nghiệp trong một thời gian; (ii) lạm phát cầu kéo phát sinh do tăng đầu tư và chi tiêu công, hay tăng xuất khẩu ròng làm thay đổi cầu. Lạm phát cầu kéo diễn ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn tiềm năng sản xuất của một nước, kéo giá tăng lên để cân bằng cung- cầu; (iii) lạm phát chi phí đẩy xảy ra do chi phí tăng lên trong khi tỷ lệ thất nghiệp cao và mức huy động nguồn lực yếu ớt, lạm phát chi phí đẩy xuất hiện trong giai đoạn đầu của kinh tế thị trường. Như vậy, muốn kiềm chế lạm phát phải quản lý lượng tiền trong lưu thông; cắt giảm chi tiêu công; thực hiện chiến lược thị trường thông qua điều tiết các ngành, các lĩnh vực độc quyền; kiểm soát xuất khẩu và giá bán lẻ các mặt hàng thiết yếu; tạo lập thị trường cạnh tranh bình đẳng; thực hiện chính sách thu nhập thông qua thuế bằng việc tăng thuế suất đối với các ngành nghề, các lĩnh vực có tiền lương cao, các mặt hàng có giá tăng nhanh; thực hiện chính sách trợ cấp đối với lĩnh vực có mức thu nhập tiền lương thấp; các mặt hàng phục vụ an sinh, xã hội có lợi nhuận thấp.
Lạm phát trên thế giới và Việt Nam hiện nay
Hiện nay lạm phát trên thế giới đang tăng cao, tác động gián tiếp tới kinh tế nước ta, giá nhiều mặt hàng nguyên liệu, vật tư chiến lược vẫn chịu áp lực lớn từ việc tăng giá trên thế giới và nhu cầu đầu tư, tiêu dùng trong nước, như xăng dầu, vật liệu xây dựng, phân bón, thức ăn chăn nuôi, dịch vụ du lịch…nhưng với các chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế hiện nay của Chính phủ cũng góp phần làm giảm áp lực lên mặt bằng giá, như các chính sách về miễn, giảm thuế, lệ phí sẽ góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đã đề ra.
Theo ước tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2022 ước tăng khoảng 3,5% - 3,8%. Dự báo thời gian tới, giá nhiều mặt hàng nguyên liệu, vật tư chiến lược vẫn chịu áp lực lớn từ tình trạng phục hồi không đồng đều và thiếu bền vững của kinh tế thế giới, nhất là một số nền kinh tế lớn và đối tác chính của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao do việc đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt năng lượng… và một số yếu tố khác gây áp lực lên mặt bằng giá như đồng đô la Mỹ tăng giá; giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc tăng theo quy luật vào giai đoạn chuyển mùa và thời điểm lễ tết cuối năm...đồng thời với việc tập trung triển khai đẩy mạnh giải ngân đầu tư công có thể làm giá cả biến động. Tuy nhiên, một số yếu tố làm giảm áp lực tăng giá như giá điện, dịch vụ y tế vẫn được giữ ổn định trong những tháng còn lại của năm 2022, đồng thời các chính sách miễn, giảm thuế, lệ phí sẽ góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.Trên cơ sở tổng hợp thông tin và cập nhật dự báo xu hướng giá trong năm 2022, Bộ Tài chính đã cập nhật 2 kịch bản điều hành giá. (i) giá xăng dầu bình quân năm 2022 tăng 40% so với năm 2021, giá một số mặt hàng thiết yếu tăng trong khoảng từ 5% - 10%, cộng với ảnh hưởng của thiên tai các tháng cuối năm 2022 tác động đến CPI khoảng 0,2%, dự báo CPI bình quân năm 2022 so năm 2021 tăng khoảng 3,37%. (ii) nếu các yếu tố từ giá xăng dầu và một số mặt hàng thiết yếu khác tăng cao hơn từ 3% - 5%, ảnh hưởng của thiên tai các tháng cuối năm 2022 tác động đến CPI khoảng 0,4%, dự báo CPI bình quân năm 2022 so năm 2021 tăng khoảng 3,87%.
Từ thực trạng trên cho thấy có 3 yếu tố chính đang tác động lên lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm đó là (i) kinh tế nước ta tham gia hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, lại là nước nhập khẩu lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên, vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, khi nguyên, vật liệu đầu vào tăng tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong những tháng cuối năm và các năm tiếp theo; (ii) giá nguyên, nhiên vật liệu tăng cao, đặc biệt xăng dầu là mặt hàng chiến lược, quan trọng sẽ làm cho lạm phát tăng; (iii) các chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với quy mô lớn, cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021, năm 2022 được giải ngân sẽ làm cho tổng cầu tăng đột biến sẽ là áp lực lớn lên lạm phát trong năm 2023; (iiii) việc linh hoạt nới lỏng chính sách tiền tệ để phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc mở thêm rum tín dụng và hạ lãi suất cho vay đối với mộ số lĩnh vực, ngành nghề, nếu không quản lí và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn này sẽ không đạt hiệu quả theo mục tiêu đề ra, mà lại chảy vào các lĩnh vực kinh doanh có độ rủi ro cao không những tăng áp lực lạm phát mà còn ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Để kiềm chế lạm phát trong thời gian tới cần thực hiện tốt các giải pháp: (i) Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát của Việt Nam. Kiểm soát giá nguyên vật liệu đầu vào, tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước dần thay thế nguồn nhập khẩu; (ii) các bộ, ngành chức năng theo dõi sát diễn biến giá xăng dầu thế giới, đồng thời kết hợp quỹ bình ổn xăng dầu để hạn chế mức tăng giá của mặt hàng này đối với lạm phát chung của nền kinh tế; (iii) đối với các nguyên liệu đầu vào quan trọng như sắt thép, vật liệu xây dựng cần thúc đẩy tăng năng lực sản xuất trong nước, ưu tiên cung ứng cho thị trường trong nước hơn thị trường xuất khẩu, đồng thời chủ động bình ổn giá các mặt hàng, không để xảy ra tăng giá bất hợp lý. (iiii) Điều hành linh hoạt đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, đồng thời góp phần hỗ trợ tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh và đời sống người dân; (iiiii) tăng cường công tác thông tin, truyền thông nhằm đưa thông tin kịp thời, minh bạch, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán đối với các ngành, lĩnh vực thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế gắn với kiềm chế lạm phát.
Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong kiềm chế lạm phát
Để góp phần kiềm chế lạm phát, với vai trò Kiểm toán nhà nước là một trong những công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính công của Nhà nước, hoạt động kiểm toán nhằm cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước, các nhà đầu tư phục vụ công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách nhà nước và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, tài sản công hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Đồng thời cung cấp thông tin phục vụ cho cơ quan lập pháp thẩm tra đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội; giám sát và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và cơ chế kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập hiện nay. Hoạt động kiểm toán có vai trò quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí, góp phần kiềm chế lạm phát, cụ thể:
Một là, tư vấn với các cơ quan nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua kết quả kiểm toán ngân hàng nhà nước, ngoài việc xác nhận tính trung thực và hợp pháp của báo cáo tài chính, cần đi sâu đánh giá các chỉ tiêu liên quan đến khối lượng tiền phát hành ra lưu thông, các quỹ dự trữ bắt buộc, quy định mức lãi suất cho các ngân hàng thương mại...Đối với các ngân hàng thương mại chú ý kiểm toán tính tuân thủ trong việc áp dụng lãi suất; tổng phương tiện thanh toán, tổng dư nợ tín dụng... Để thực hiện giải pháp này, theo chuyên đề, trong thời kỳ này Kiểm toán Nhà nước nên tổ chức kiểm toán hàng năm đối với ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng, để đưa ý kiến tư vấn đầy đủ, khách quan, kịp thời cho các cơ quan Nhà nước trong việc hoạch định các chính sách tiền tệ quốc gia.
Hai là, Kiểm toán nhà nước giúp các cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công, bằng việc thông qua kết quả kiểm toán, Kiểm toán nhà nước đưa ra ý kiến đánh giá công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách; công tác quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản gắn với trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị, đề nghị với các cơ quan nhà nước cắt, giản tiến độ; đối với các công trình chưa cần thiết, tập trung cho các công trình trọng điểm, khắc phục đầu tư dàn trải; xắp xếp lại vốn đầu tư; thu hồi những khoản chi không đúng quy định, sử dụng vốn không đúng mục đích gây lãng phí, thất thoát, tiêu cực... kiến nghị với các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý theo quy định của Nhà nước; kiểm tra các dự án đầu tư bằng các nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ... đặc biệt là vay nợ nước ngoài. Thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm những khoản chi sai nội dung, vượt định mức.
Ba là, kết quả kiểm toán ngân sách xác định số thu, chi ngân sách cả về tổng số và chi tiết đến từng khoản mục, đây là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm trước làm cơ sở cho việc xây dựng toán thu ngân sách, trên cơ sở khai thác triệt để các nguồn lực tăng thu NSNN, bố trí cơ cấu chi hợp lý, cắt giảm các khoản chi không cần thiết để giảm tỷ lệ thâm hụt NSNN. Giúp Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định và phân bổ dự toán ngân sách năm kế hoạch; quyết định dự toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, các chương trình mục tiêu quốc gia.
Bốn là, kết quả kiểm toán đưa ra ý kiến đánh giá, nhận xét về tính trung thực, hợp pháp báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời xác định giá thành, giá bán hợp lý của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, tránh tình trạng đầu cơ nâng giá làm rối loạn thị trường.
Năm là, kết quả kiểm toán góp phần minh bạch tài chính, tham gia chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí bởi vì "tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực công nhằm lợi ích cá nhân" dựa trên sự bưng bít thông tin, không rõ ràng, thiếu minh bạch tạo nên sự tựy tiện trong quá trình thi hành công vụ, gây khó khăn cho công dân nhằm mục đích vụ lợi. Đặc biệt sự thiếu minh bạch về các thông tin trong quản lý kinh tế, tài chính là điều kiện phát sinh lãng phí, tiêu cực, tham nhũng. kết quả kiểm toán giúp phần minh bạch hóa tài chính, giúp phần vào mặt trận đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong quản lý chi tiêu công.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Kiểm toán Nhà nước phải nâng cao năng lực hoạt động bảo đảm chất lượng và hiệu quả kiểm toán, thực sự là một trong những công cụ quan trọng trong việc thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát của Đảng, Nhà nước.
TS. Mai Vinh, Trường Đào tạo và Bồi dường nghiệp vụ kiểm toán
Một số vấn đề lý luận chung về lạm phát
Lạm phát gắn liền với nền kinh tế thị trường, nó là hệ quả của một chu kỳ tăng trưởng kinh tế mất cân đối cung - cầu, làm sai lệch thước đo giá trị hàng hoá, được biểu hiện bằng sự tăng lớn trong mức giá chung. Trong một nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, lạm phát là một biểu hiện bất thường mang tính quy luật vốn có của cơ chế kinh tế. Lạm phát có tác động đến quá trình phân phối thu nhập, của cải trong toàn xã hội; tác động đến hiệu quả kinh tế bằng việc làm sai lệch giá trị đó là thước đo tiền tệ, tạo nên tâm lý trong cộng đồng dân cư, giảm nhu cầu cất trữ tiền; các doanh nghiệp quản lý tiền cẩn trọng hơn, do đó các nguồn lực thực tế được ưu tiên đối phó với lạm phát thay cho nhu cầu tiêu dùng và đầu tư; lạm phát cũng đồng thời làm tăng thuế suất trung bình của hàng hoá và thu nhập, cho dù chính phủ không cần thiết phải ban hành các văn bản điều chỉnh thuế suất... Nếu không có giải pháp kiềm chế lạm phát, để lạm phát kéo dài, ngày một gia tăng thì nó có thể làm sụp đổ một nền kinh tế. Do đó các nhà kinh tế cần dự báo chính xác và đề ra các giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng quốc gia để kiềm chế lạm phát có hiệu quả.
Theo Milton Friedman: "lạm phát luôn luôn và ở bất cứ đâu, nó là hiện tượng của tiền tệ". Quan điểm này chỉ ra khi một đất nước có tỷ lệ lạm phát cao và duy trì trong một thời gian nhất định thì ở đó tỷ lệ tăng cung tiền rất lớn. Nếu như lạm phát được định nghĩa là sự tăng nhanh và liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế thì hầu hết các nhà kinh tế thuộc trường phái trọng tiền và các nhà kinh tế thuộc trường phái Keyne đều đồng ý với Friedman: Nguyên nhân duy nhất gây ra lạm phát là tiền. Nếu xét biểu hiện bên ngoài thì có thể lạm phát do thâm hụt ngân sách trong một thời gian dài gây nên, nhưng trong trường hợp này lạm phát chỉ sảy ra khi chính phủ phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp bội chi. Như vậy xét về mặt bản chất thì lạm phát cũng chính do tiền gây ra.
Diễn biến của lạm phát theo hai khuynh hướng là giảm phát và lạm phát, nguyên nhân gây nên giảm phát là do lao động và vốn bị thiển dụng cao. Còn lạm phát thường biểu hiện ở ba mức độ, là (i) lạm phát vừa phải là đặc trưng của giá cả tăng chậm và có thể dự đoán được với tỷ lệ một chữ số/năm; (ii) lạm phát phi mã là tỷ lệ lạm phát tăng từ hai, ba chữ số/năm, tiền mất giá dẫn đến giá cả hàng hoá tăng cao, đe dọa sự tồn tại của thị trường tài chính; (iii) siêu lạm phát, đó là bước tiếp theo của lạm phát phi mã, giá có thể tăng hàng triệu, tỷ lần/năm.
Lạm phát được sinh ra từ sự vận động của bản thân nền kinh tế, trong điều kiện lạm phát vừa phải, tức là nền kinh tế đang phát triển bình thường, giữ được các mối quan hệ tỷ lệ cân đối với sản lượng và lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế, đây là mối quan hệ tạm thời thiếu bền vững, nhưng không thể tồn tại trong một thời gian dài. Các mối quan hệ này bị phá vỡ do sự vận động của các quan hệ kinh tế, như tập trung các nguồn lực, vốn, lao động vào đầu tư thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động từ đó làm tăng tỷ lệ lạm phát. Để giảm lạm phát, chúng ta phải cắt giảm đầu tư, tức là giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng lãi suất tiền vay để giảm tiền trong lưu thông; giải pháp này cũng đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ thất nghiệp, dẫn đến thời kỳ nền kinh tế sẽ bị đình trệ, suy thóai. Kỳ vọng của mọi quốc gia là sự lựa chọn tỷ lệ thất nghiệp thích hợp sao cho vừa bảo đảm tốc độ tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo việc làm đầy đủ cho người lao động và gía cả ổn định, nhưng trong thực tế đạt được điều này là tương đối khó, do hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi quốc gia luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố cạnh tranh từ nội tại nền kinh tế và trong từng lĩnh vực với các thành phần kinh tế khác nhau; sự chống đối của các giai tầng trong xã hội, giữa giới chủ và công nhân lao động; chiến tranh, dịch bệnh và cả các mối quan hệ kinh tế, chính trị đa phương, song phương giữa các quốc gia có nền kinh tế phát triển... Như vậy, trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, lạm phát không chỉ dừng lại ở các nguyên nhân nêu trên, mà nó còn chịu sự tác động bởi một số yếu tố phi kinh tế, làm nảy sinh các hình thức lạm phát, như (i) lạm phát quán tính là do nền kinh tế hiện đại có tính ỳ cao, tức là nó sẽ giữ nguyên tỷ lệ lạm phát cho tới khi chính bản thân nền kinh tế thay đổi làm cho lạm phát thay đổi theo. Thực tế lạm phát không giữ được trạng thái cố định trong một thời gian dài do làm thay đổi tổng cầu, tỷ giá...đẩy lạm phát lên cao hoặc xuống thấp tạo nên cầu kéo và chi phí đẩy. Muốn giảm lạm phát quán tính, phải giảm sản lượng và tăng tỷ lệ thất nghiệp trong một thời gian; (ii) lạm phát cầu kéo phát sinh do tăng đầu tư và chi tiêu công, hay tăng xuất khẩu ròng làm thay đổi cầu. Lạm phát cầu kéo diễn ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn tiềm năng sản xuất của một nước, kéo giá tăng lên để cân bằng cung- cầu; (iii) lạm phát chi phí đẩy xảy ra do chi phí tăng lên trong khi tỷ lệ thất nghiệp cao và mức huy động nguồn lực yếu ớt, lạm phát chi phí đẩy xuất hiện trong giai đoạn đầu của kinh tế thị trường. Như vậy, muốn kiềm chế lạm phát phải quản lý lượng tiền trong lưu thông; cắt giảm chi tiêu công; thực hiện chiến lược thị trường thông qua điều tiết các ngành, các lĩnh vực độc quyền; kiểm soát xuất khẩu và giá bán lẻ các mặt hàng thiết yếu; tạo lập thị trường cạnh tranh bình đẳng; thực hiện chính sách thu nhập thông qua thuế bằng việc tăng thuế suất đối với các ngành nghề, các lĩnh vực có tiền lương cao, các mặt hàng có giá tăng nhanh; thực hiện chính sách trợ cấp đối với lĩnh vực có mức thu nhập tiền lương thấp; các mặt hàng phục vụ an sinh, xã hội có lợi nhuận thấp.
Lạm phát trên thế giới và Việt Nam hiện nay
Hiện nay lạm phát trên thế giới đang tăng cao, tác động gián tiếp tới kinh tế nước ta, giá nhiều mặt hàng nguyên liệu, vật tư chiến lược vẫn chịu áp lực lớn từ việc tăng giá trên thế giới và nhu cầu đầu tư, tiêu dùng trong nước, như xăng dầu, vật liệu xây dựng, phân bón, thức ăn chăn nuôi, dịch vụ du lịch…nhưng với các chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế hiện nay của Chính phủ cũng góp phần làm giảm áp lực lên mặt bằng giá, như các chính sách về miễn, giảm thuế, lệ phí sẽ góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đã đề ra.
Theo ước tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2022 ước tăng khoảng 3,5% - 3,8%. Dự báo thời gian tới, giá nhiều mặt hàng nguyên liệu, vật tư chiến lược vẫn chịu áp lực lớn từ tình trạng phục hồi không đồng đều và thiếu bền vững của kinh tế thế giới, nhất là một số nền kinh tế lớn và đối tác chính của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao do việc đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt năng lượng… và một số yếu tố khác gây áp lực lên mặt bằng giá như đồng đô la Mỹ tăng giá; giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc tăng theo quy luật vào giai đoạn chuyển mùa và thời điểm lễ tết cuối năm...đồng thời với việc tập trung triển khai đẩy mạnh giải ngân đầu tư công có thể làm giá cả biến động. Tuy nhiên, một số yếu tố làm giảm áp lực tăng giá như giá điện, dịch vụ y tế vẫn được giữ ổn định trong những tháng còn lại của năm 2022, đồng thời các chính sách miễn, giảm thuế, lệ phí sẽ góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.Trên cơ sở tổng hợp thông tin và cập nhật dự báo xu hướng giá trong năm 2022, Bộ Tài chính đã cập nhật 2 kịch bản điều hành giá. (i) giá xăng dầu bình quân năm 2022 tăng 40% so với năm 2021, giá một số mặt hàng thiết yếu tăng trong khoảng từ 5% - 10%, cộng với ảnh hưởng của thiên tai các tháng cuối năm 2022 tác động đến CPI khoảng 0,2%, dự báo CPI bình quân năm 2022 so năm 2021 tăng khoảng 3,37%. (ii) nếu các yếu tố từ giá xăng dầu và một số mặt hàng thiết yếu khác tăng cao hơn từ 3% - 5%, ảnh hưởng của thiên tai các tháng cuối năm 2022 tác động đến CPI khoảng 0,4%, dự báo CPI bình quân năm 2022 so năm 2021 tăng khoảng 3,87%.
Từ thực trạng trên cho thấy có 3 yếu tố chính đang tác động lên lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm đó là (i) kinh tế nước ta tham gia hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, lại là nước nhập khẩu lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên, vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, khi nguyên, vật liệu đầu vào tăng tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong những tháng cuối năm và các năm tiếp theo; (ii) giá nguyên, nhiên vật liệu tăng cao, đặc biệt xăng dầu là mặt hàng chiến lược, quan trọng sẽ làm cho lạm phát tăng; (iii) các chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với quy mô lớn, cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021, năm 2022 được giải ngân sẽ làm cho tổng cầu tăng đột biến sẽ là áp lực lớn lên lạm phát trong năm 2023; (iiii) việc linh hoạt nới lỏng chính sách tiền tệ để phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc mở thêm rum tín dụng và hạ lãi suất cho vay đối với mộ số lĩnh vực, ngành nghề, nếu không quản lí và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn này sẽ không đạt hiệu quả theo mục tiêu đề ra, mà lại chảy vào các lĩnh vực kinh doanh có độ rủi ro cao không những tăng áp lực lạm phát mà còn ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Để kiềm chế lạm phát trong thời gian tới cần thực hiện tốt các giải pháp: (i) Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát của Việt Nam. Kiểm soát giá nguyên vật liệu đầu vào, tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước dần thay thế nguồn nhập khẩu; (ii) các bộ, ngành chức năng theo dõi sát diễn biến giá xăng dầu thế giới, đồng thời kết hợp quỹ bình ổn xăng dầu để hạn chế mức tăng giá của mặt hàng này đối với lạm phát chung của nền kinh tế; (iii) đối với các nguyên liệu đầu vào quan trọng như sắt thép, vật liệu xây dựng cần thúc đẩy tăng năng lực sản xuất trong nước, ưu tiên cung ứng cho thị trường trong nước hơn thị trường xuất khẩu, đồng thời chủ động bình ổn giá các mặt hàng, không để xảy ra tăng giá bất hợp lý. (iiii) Điều hành linh hoạt đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, đồng thời góp phần hỗ trợ tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh và đời sống người dân; (iiiii) tăng cường công tác thông tin, truyền thông nhằm đưa thông tin kịp thời, minh bạch, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán đối với các ngành, lĩnh vực thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế gắn với kiềm chế lạm phát.
Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong kiềm chế lạm phát
Để góp phần kiềm chế lạm phát, với vai trò Kiểm toán nhà nước là một trong những công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính công của Nhà nước, hoạt động kiểm toán nhằm cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước, các nhà đầu tư phục vụ công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách nhà nước và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, tài sản công hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Đồng thời cung cấp thông tin phục vụ cho cơ quan lập pháp thẩm tra đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội; giám sát và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và cơ chế kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập hiện nay. Hoạt động kiểm toán có vai trò quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí, góp phần kiềm chế lạm phát, cụ thể:
Một là, tư vấn với các cơ quan nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua kết quả kiểm toán ngân hàng nhà nước, ngoài việc xác nhận tính trung thực và hợp pháp của báo cáo tài chính, cần đi sâu đánh giá các chỉ tiêu liên quan đến khối lượng tiền phát hành ra lưu thông, các quỹ dự trữ bắt buộc, quy định mức lãi suất cho các ngân hàng thương mại...Đối với các ngân hàng thương mại chú ý kiểm toán tính tuân thủ trong việc áp dụng lãi suất; tổng phương tiện thanh toán, tổng dư nợ tín dụng... Để thực hiện giải pháp này, theo chuyên đề, trong thời kỳ này Kiểm toán Nhà nước nên tổ chức kiểm toán hàng năm đối với ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng, để đưa ý kiến tư vấn đầy đủ, khách quan, kịp thời cho các cơ quan Nhà nước trong việc hoạch định các chính sách tiền tệ quốc gia.
Hai là, Kiểm toán nhà nước giúp các cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công, bằng việc thông qua kết quả kiểm toán, Kiểm toán nhà nước đưa ra ý kiến đánh giá công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách; công tác quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản gắn với trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị, đề nghị với các cơ quan nhà nước cắt, giản tiến độ; đối với các công trình chưa cần thiết, tập trung cho các công trình trọng điểm, khắc phục đầu tư dàn trải; xắp xếp lại vốn đầu tư; thu hồi những khoản chi không đúng quy định, sử dụng vốn không đúng mục đích gây lãng phí, thất thoát, tiêu cực... kiến nghị với các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý theo quy định của Nhà nước; kiểm tra các dự án đầu tư bằng các nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ... đặc biệt là vay nợ nước ngoài. Thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm những khoản chi sai nội dung, vượt định mức.
Ba là, kết quả kiểm toán ngân sách xác định số thu, chi ngân sách cả về tổng số và chi tiết đến từng khoản mục, đây là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm trước làm cơ sở cho việc xây dựng toán thu ngân sách, trên cơ sở khai thác triệt để các nguồn lực tăng thu NSNN, bố trí cơ cấu chi hợp lý, cắt giảm các khoản chi không cần thiết để giảm tỷ lệ thâm hụt NSNN. Giúp Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định và phân bổ dự toán ngân sách năm kế hoạch; quyết định dự toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, các chương trình mục tiêu quốc gia.
Bốn là, kết quả kiểm toán đưa ra ý kiến đánh giá, nhận xét về tính trung thực, hợp pháp báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời xác định giá thành, giá bán hợp lý của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, tránh tình trạng đầu cơ nâng giá làm rối loạn thị trường.
Năm là, kết quả kiểm toán góp phần minh bạch tài chính, tham gia chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí bởi vì "tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực công nhằm lợi ích cá nhân" dựa trên sự bưng bít thông tin, không rõ ràng, thiếu minh bạch tạo nên sự tựy tiện trong quá trình thi hành công vụ, gây khó khăn cho công dân nhằm mục đích vụ lợi. Đặc biệt sự thiếu minh bạch về các thông tin trong quản lý kinh tế, tài chính là điều kiện phát sinh lãng phí, tiêu cực, tham nhũng. kết quả kiểm toán giúp phần minh bạch hóa tài chính, giúp phần vào mặt trận đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong quản lý chi tiêu công.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Kiểm toán Nhà nước phải nâng cao năng lực hoạt động bảo đảm chất lượng và hiệu quả kiểm toán, thực sự là một trong những công cụ quan trọng trong việc thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát của Đảng, Nhà nước.