Kinh nghiệm các nước trên thế giới quy định về xử lý hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước và khả năng vận dụng ở Việt Nam

15/05/2014
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(kiemtoannn.gov.vn) - Ở hầu hết các nước tồn tại cơ quan Kiểm toán Nhà nước (KTNN), ngoài những quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức và hoạt động của KTNN, Luật Kiểm toán nhà nước (Luật KTNN) đều có những quy định về xử lý hành vi vi phạm Luật KTNN. Các quy định cụ thể về xử lý hành vi vi phạm Luật KTNN của các nước có thể khác nhau về mức độ, nội dung cụ thể, chẳng hạn:


Luật KTNN Trung Quốc, có 1 chương riêng (Chương VI) quy định về trách nhiệm pháp lý với 9 điều (từ Điều  41 đến Điều 49) cụ thể như sau:
    
- Nếu đơn vị được kiểm toán chậm trễ hoặc từ chối việc cung cấp các thông tin có liên quan cho đoàn kiểm toán, cản trở hoặc từ chối việc kiểm tra hoặc vi phạm luật này, cơ quan kiểm toán sẽ buộc đơn vị được kiểm toán sửa chữa vi phạm, thậm chí có thể cảnh cáo hoặc phê bình đối với đơn vị được kiểm toán.

Bất kỳ cá nhân nào từ chối chấp hành đều bị điều tra về trách nhiệm theo Luật định (Điều 41).
 
- Khi cơ quan kiểm toán phát hiện đơn vị được kiểm toán có hành vi thuyên chuyển, cất dấu, huỷ bỏ hoặc làm mất khả năng phục hồi các chứng từ, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính và các tài liệu khác có liên quan đến chế độ thu chi tài chính tại đơn vị, cơ quan kiểm toán có quyền đề nghị đình chỉ những hành vi đó.
 
Nếu đơn vị được kiểm toán có nhiều hành vi vi phạm nêu trên và nếu cơ quan kiểm toán nhận thấy rằng cá nhân có trách nhiệm trong đơn vị hoặc những cá nhân chịu trách nhiệm trực tiếp sẽ bị xử lý theo Pháp luật. Cơ quan cấp trên hoặc cơ quan giám sát đơn vị sẽ ra quyết định việc xử lý đó theo quy định của luật pháp mà không có sự trì hoãn nào. Nếu những hành vi vi phạm cấu thành tội phạm, cơ quan toà án sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự trước pháp luật (Điều 42).
 
- Nếu đơn vị được kiểm toán vi phạm luật này bằng việc cất dấu, thuyên chuyển hoặc tiêu huỷ tài sản một cách bất hợp pháp, cơ quan kiểm toán, chính quyền nhân dân các cấp hoặc các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình có quyền đề nghị đình chỉ các hành vi nếu trên hoặc đề nghị chuyển sự việc sang toà án để có các biện pháp ngăn ngừa.
 
Nếu đơn vị được kiểm toán có những hành vi vi phạm nêu trên và nếu cơ quan kiểm toán nhận thấy rằng, cá nhân có trách nhiệm trong đơn vị hoặc những cá nhân trực tiếp chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm thủ tục kiểm toán của đơn vị, cơ quan kiểm toán sẽ đề nghị truy tố họ trước pháp luật. Cơ quan cấp trên hoặc cơ quan giám sát đơn vị này sẽ ra quyết định truy tố mà không có sự trì hoãn nào theo quy định của luật pháp. Trường hợp những cá nhân này có tội, cơ quan toà án sẽ điều tra và quy rõ trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật (Điều 43).
 
- Cơ quan kiểm toán, chính quyền nhân dân các cấp hoặc các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, trong phạm vi các quy định và nguyên tắc về quản lý Nhà nước sẽ xử lý các hành vi vi phạm chế độ chi tiêu ngân sách của các cơ quan, đơn vị (bao gồm cả các đơn vị trực thuộc) tại chính quyền nhân dân các cấp vi phạm quy định của pháp luật về chi tiêu ngân sách (Điều 44).
 
- Nếu đơn vị được kiểm toán vi phạm bất kỳ quy định nào của Nhà nước về chế độ chi tiêu ngân sách, cơ quan kiểm toán, chính quyền nhân dân các cấp hoặc các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình có quyền buộc đơn vị được kiểm toán, trong thời hạn ngắn phải thu hồi lại phần thu nhập đã phân phối bất hợp pháp, việc chiếm giữ bất hợp pháp những tài sản của Nhà nước, những khoản thu nhập bất hợp pháp và tìm giải pháp chấn chỉnh kịp thời, đồng thời có thể xử phạt đối với đơn vị được kiểm toán theo quy định của luật pháp (Điều 45).
 
- Đối với những cá nhân có trách nhiệm trong đơn vị hoặc những cá nhân chịu trách nhiệm trực tiếp về hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ thu chi ngân sách của đơn vị, nếu cơ quan kiểm toán xét thấy hành vi của họ nên bị xử lý theo Luật định, cơ quan kiểm toán sẽ đưa ra đề nghị để thực hiện việc xử lý đó. Đơn vị được kiểm toán, cơ quan cấp trên hoặc cơ quan giám sát đơn vị này sẽ ra quyết định truy tố mà không có sự trì hoãn nào (Điều 46).
 
- Nếu đơn vị được kiểm toán vi phạm các nguyên tắc quản lý, các quy định về chế độ thu chi tài chính hoặc quy định của các luật có liên quan khác và nếu hành vi của họ cấu thành tội phạm thì đơn vị sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước pháp luật và khởi tố trước pháp luật (Điều 47).
 
- Bất kỳ một cá nhân nào có hành vi chống đối hoặc gây khó khăn cho các kiểm toán viên trong khi họ đang làm nhiệm vụ, nếu hành vi đó cấu thành tội phạm, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi phạm tội của họ không cấu thành tội phạm, họ sẽ bị xử phạt hành chính (Điều 48).
 
- Nếu một KTV lợi dụng chức năng, quyền hạn của mình thu vén cá nhân hoặc sao lãng trong công tác, nếu hành vi của họ cấu thành tội phạm, anh ta sẽ bị truy tố và khởi tố trước pháp luật; ngược lại, anh ta sẽ bị xử phạt hành chính (Điều 49).
 
Luật KTNN Vương quốc Cămpuchia cũng có một chương riêng (Chương 10) gồm 2 điều (Điều 44, Điều 45) quy định về hình phạt. Nội dung của Chương này quy định hình thức xử phạt (phạt tiền hoặc phạt tù) với các mức phạt cụ thể đối với cá nhân có trách nhiệm thuộc các đơn vị được kiểm toán hoặc những cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán khi vi phạm các điều khoản của Luật KTNN quy định về: Trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN (Điều 31 ); Không tạo điều kiện cho hoạt động kiểm toán theo quy định(Điều 33); Cung cấp thông tin, tài liệu sai lệch cho KTNN(Điều 34). Cụ thể là:
 
- Không kể các hình phạt khác có thể, người nào vi phạm Điều 31 (trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN) hoặc Điều 33 (không tạo điều kiện cho hoạt động kiểm toán theo quy định) của Luật này phải chịu khoản tiền phạt từ 1.000.000 (một triệu) Riel tới 5.000.000 (năm triệu) Riel hoặc bị phạt tù trong thời gian từ 1 (một) đến 3 (ba) tháng hoặc phải chịu cả phạt tiền và phạt tù (Điều 44).
    
- Không kể các hình phạt khác có thể, người nào vi phạm Điều 34 (cung cấp thông tin, tài liệu sai lệch cho KTNN) của Luật này phải chịu khoản tiền phạt lên tới 5.000.000 (năm triệu) Riel hoặc hơn hoặc bị phạt tù trong thời gian từ 1 (một) đến 5 (năm) năm hoặc phải chịu cả phạt tiền và phạt tù (Điều 45).

Luật KTNN Hàn Quốc, có 1 điều quy định về xử phạt, cụ thể như sau:
 
- Điều 51. Xử phạt:

(1) Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây thì sẽ bị phạt tù tới 1 năm hoặc phạt tiền tới 5 triệu WON:
 
a. Người chịu sự kiểm toán theo Luật này mà khước từ kiểm toán, cung cấp thông tin hoặc trình hồ sơ;
 
b. Người ngăn cản kiểm toán theo Luật này;
 
c. Người không chịu trình bày hoặc trình bày hồ sơ theo quy định tại Điều 27 (mời đến trình bày hồ sơ, niêm phong...) khoản 2 và Điều 50 (sử dụng sự giúp đỡ của người khác trong khi kiểm toán) hoặc không có mặt để trình bày mà không có lý do chính đáng.
 
(2) Vi phạm quy định tại Điều 27, khoản 4 sẽ bị phạt tù tới 3 năm hoặc phạt tiền tới 20 triệu WON.
 
(3) Các hình phạt tù và phạt tiền quy định tại khoản 2 trên đây có thể được áp dụng đồng thời cho một hành vi vi phạm.
 
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 32, KTNN có thể yêu cầu Bộ trưởng chủ quản  hoặc đơn vị trực tiếp quản lý tiến hành biện pháp kỷ luật công chức có trách nhiệm đã khước từ kiểm toán hoặc trình hồ sơ theo tinh thần của Luật này mà không có lý do thoả đáng.
 
Luật Kiểm toán CHLB Đức, có 1 điều quy định về xử lý kỷ luật đối với các uỷ viên của KTNNLB, cụ thể là:
    
- Điều 18. Thẩm quyền của toàn án công vụ liên bang
    
+ Toà án công vụ liên bang chuyên trách về xét xử kỷ luật có tính chất hình thức đối với các uỷ viên của KTNNLB và về việc xét xử công tác kiểm toán theo nghĩa Điều 66 - Đạo luật thẩm phán Đức - có liên quan đến uỷ viên của KTNNLB. Quyền đề nghị khởi tố theo Điều 63 Khoản 2 và Điều 66 Khoản 3 - Đạo luật thẩm phán Đức - của các cơ quan công vụ tối cao đối với Chủ tịch và Phó chủ tịch thuộc về chủ tịch Quốc hội liên bang hoặc Chủ tịch của Hội đồng liên bang.
    
+ Các bồi thẩm không thường trực của toà án công vụ phải là uỷ viên của KTNNLB. Chủ tịch của toàn án liên bang chọn những bồi thẩm này cho thời gian hoạt động 5 năm theo theo thứ tự trong danh sách đề nghị do Đại hội đồng lập.
    
+ Những quy định của Đạo luật thẩm phán Đức được áp dụng cho việc xét xử trước toà án công vụ.
    
Luật Kiểm toán CH Pháp, có 1 khoản quy định việc xử phạt hành vi cản trở các kiểm toán viên trong khi thực hiện các quyền hạn theo luật định như sau:
    
- Khoản 8 Điều 9: Người nào ngăn cản dưới bất kỳ hình thức nào các công chức có địa vị thẩm phán, các kiểm toán viên đặc biệt và các báo cáo viên kiểm toán trong khi họ thi hành các thẩm quyền mà pháp luật trao cho họ thì bị phạt tiền tới 100.000FF. Uỷ viên công tố tối cao tại KTNN có quyền khởi kiện tại phòng xử phạt của KTNN đối với những hành vi này.
    
Luật Kiểm toán CH Séc, có 1 khoản quy định việc xử phạt hành vi vi phạm của tổ chức có liên quan đến hoạt động kiểm toán; xử lý kỷ luật đối với các uỷ viên của KTNN, cụ thể là:
    
- Khoản 1 Điều 28: Một thể nhân có lỗi trong việc đã làm cho đơn vị được kiểm toán không thực hiện được các nghĩa vụ của mình được ghi tại Điều 24 của Luật này thì có thể bị Cục phạt tiền đến 50.000 cuaron.
    
- Điều 34: Chủ tịch Cục, Phó Chủ tịch Cục và các uỷ viên Cục chịu trách nhiệm kỷ luật đối với những vi phạm công vụ.
    
- Điều 44. Biện pháp kỷ luật:
    
(1) Đối với một vi phạm công vụ thì có thể tuyên phạt một trong các biện pháp kỷ luật sau đây:
    
a. Cảnh cáo,
    
b. Hạ lương cao nhất là 15% đối với thời gian dài nhất là 3 tháng.
    
(2) Đối với một vi phạm công vụ trầm trọng hoặc trường hợp tái phạm thì có thể tuyên phạt một trong các biện pháp kỷ luật sau đây:
    
a. Hạ lương cao nhất là 15% đối với thời gian dài nhất là 6 tháng,
    
b. Đề nghị bãi chức một uỷ viên Cục khỏi chức vụ của người đó,
    
c. Đề nghị bãi chức Chủ tịch Cục hoặc Phó Chủ tịch của Chủ tịch Cục hoặc Phó Chủ tịch Cục.
    
Một số nhận xét từ nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và bài học rút ra cho Việt Nam
    
Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xử lý các hành vi vi phạm Luật KTNN thể rút ra một số nhận xét tổng quát sau đây:
 
(1) Về thiết kế các điều khoản quy định về xử lý các hành vi vi phạm trong Luật KTNN

Để bảo đảm hiệu lực của hoạt động kiểm toán và tính nghiêm minh của pháp luật, Luật KTNN của các nước được nghiên cứu đều có các quy định cụ thể về xử lý hành vi vi phạm Luật KTNN. Tuy nhiên, mức độ và nội dung cụ thể ở các luật cũng có sự khác nhau nhất định, chẳng hạn: Luật KTNN Trung Quốc có 1 chương riêng (Chương VI) quy định về trách nhiệm pháp lý với 9 điều (từ Điều  41 đến Điều 49), Luật KTNN Vương Quốc Cănpuchia cũng có một chương riêng (Chương 10) gồm 2 điều (Điều 44, Điều 45) quy định về hình phạt; Luật Kiểm toán CH Séc có 3 điều (Điều 28, Điều 34, Điều 44); Luật Kiểm toán CHLB Đức có 1 điều (Điều 18);
    
(2) Về hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước
    
- Đa số các Luật kiểm toán nhấn mạnh và đưa ra biện pháp xử lý nghiêm khắc những hành vi cản trở các kiểm toán viên trong khi thực hiện các quyền hạn theo luật định của họ hoặc trừng phạt những hành động cất dấu hoặc tiêu hủy các hồ sơ tài liệu; Hành vi vi phạm pháp luật của bên thứ ba dẫn đến việc làm cho đơn vị được kiểm toán không thực hiện được các nghĩa vụ theo quy định của Luật KTNN. Các Điều 15, 34,41 – 43 Luật KT Trung Quốc; Khoản 8 Điều 9 Luật KTN Pháp; Khoản 1 Điều 32 Luật KT Hàn Quốc; Điều 28 Luật KT Séc; Điều 34, Điều 35 Luật KTNN Vương quốc Campuchia
  
- Ngoài việc nhấn mạnh biện pháp xử lý những hành vi cản trở hoạt động kiểm toán của đơn vị được kiểm toán hoặc tổ chức có liên quan, nhiều Luật Kiểm toán đều quy định biện pháp xử lý những hành vi vi phạm kỷ luật công vụ của cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước. Điều 49 Luật KT Trung quốc; Điều 18 Luật KTCHLB Đức; Điều 34 Luật KT Séc.
    
- Luật Kiểm toán Trung Quốc còn nhấn mạnh biện pháp xử lý những hành vi vi phạm chế độ chi tiêu ngân sách của các cơ quan, đơn vị được kiểm toán (bao gồm cả các đơn vị trực thuộc) tại chính quyền nhân dân các cấp (Điều 44); buộc đơn vị được kiểm toán, trong thời hạn ngắn phải thu hồi lại phần thu nhập đã phân phối bất hợp pháp, việc chiếm giữ bất hợp pháp những tài sản của Nhà nước, những khoản thu nhập bất hợp pháp và tìm giải pháp chấn chỉnh kịp thời, đồng thời có thể xử phạt đối với đơn vị được kiểm toán theo quy định của luật pháp (Điều 45); nếu hành vi của họ cấu thành tội phạm thì đơn vị sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước pháp luật và khởi tố trước pháp luật (Điều 47).
    
(3) Về hình phạt áp dụng đối với các hành vi vi phạm Luật KTNN
    
Đa số các Luật kiểm toán được nghiên cứu đều quy định cụ thể hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước nào bị xử phạt tiền và hành vi vi phạm nào bị xử phạt tù hoặc có những hành vi vi phạm phải chịu cả hình phạt tù và hình phạt tiền. Điều 51 Luật KT Hàn Quốc; Điều 34, Điều 35 Luật KTNN Vương quốc Cămpuchia; Khoản 8 Điều 9 Luật KT Pháp; khoản 1 Điều 28 Luật KT Séc. Hình phạt tù và hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu đối với những hành vi vi phạm các nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán, của tổ chức có liên quan hoặc hành vi ngăn cản hoạt động của KTNN theo quy định của pháp luật. Chủ thể phải chịu hình phạt tù và hình phạt tiền là cá nhân có trách nhiệm trong đơn vị được kiểm toán hoặc của tổ chức có liên quan.
    
Đối với việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước vi phạm công vụ cũng được Luật KTNN một số nước quy định rất cụ thể, như  Điều 44 Luật KT Séc quy định đối với một vi phạm công vụ thì có thể tuyên phạt một trong các biện pháp kỷ luật từ cảnh cáo, hạ lương đến bãi chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên của cơ quan KTNN khi vi phạm công vụ trầm trọng hoặc tái phạm.
    
(4) Về thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm Luật KTNN

Luật Kiểm toán của các nước được nghiên cứu quy định rõ thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm Luật KTNN, theo đó:
 
- Những chế tài liên quan trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của công dân (phạt tù) hoặc phạt tiền đều được phán quyết bởi cơ quan toà án. Sau khi có đủ cơ sở xác định hành vi vi phạm theo quy định của Luật KTNN thì vụ việc sẽ được chuyển sang cơ quan chức năng hoặc toà án để giải quyết theo con đường tư pháp. Cơ chế này vừa bảo đảm tính nhanh chóng, hiệu quả trong việc nâng cao hiệu lực hoạt động kiểm toán và tính nghiêm minh của pháp luật, vừa bảo đảm được tính chặt chẽ, minh bạch trong việc xử phạt những hành vi vi phạm Luật KTNN của những cá nhân có hành vi vi phạm. Điều 51 Luật KT Hàn Quốc; Điều 34, Điều 35 Luật KTNN Vương quốc Cămpuchia; Khoản 8 Điều 9 Luật KT Pháp ; khoản 1 Điều 28 Luật KT Séc.
    
- Ngoài chế tài phạt tiền do cơ quan toà án tuyên phạt (phạt tiền theo con đường tư pháp), hình thức phạt tiền (phạt hành chính) còn được thực hiện bởi cơ quan Kiểm toán Nhà nước, như khoản 1 Điều 28 Luật Kiểm toán CH Séc quy định: “Một thể nhân có lỗi trong việc đã làm cho đơn vị được kiểm toán không thực hiện được các nghĩa vụ của mình được ghi tại Điều 24 của Luật này thì có thể bị Cục phạt tiền đến 50.000 cuaron”.
    
- Thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm công vụ của cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước thông thường đều do cơ quan KTNN - cơ quan trực tiếp quản lý cán bộ, công chức thực hiện. Riêng Luật Kiểm toán CHLB Đức quy định việc xét xử kỷ luật có tính chất hình thức đối với các uỷ viên của KTNNLB do Toà án công vụ liên bang chuyên trách thực hiện (Điều 18).
 
(5) Về quyền kiến nghị xử lý của KTNN đối với hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước

Kiểm toán Nhà nước không phải là cơ quan có chức năng kiểm tra phát hiện vi phạm pháp luật để xử lý mà có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Tuy nhiên, trong quả trình thực hiện kiểm toán, KTNN phát hiện ra những hành vi vi phạm pháp luật của đơn vị được kiểm toán, của tổ chức, cá nhân có liên quan thì KTNN phải xử lý theo quy định của pháp luật đối với những nước mà Luật KTNN trao quyền xử lý cho KTNN (khoản 1 Điều 28 Luật Kiểm toán CH Séc); còn lại hầu hết các cơ quan KTNN phải kiến nghị với các cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét xử lý hành vi vi phạm pháp luật thông qua việc kiến nghị và chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm do KTNN phát hiện trong hoạt động kiểm toán. Luật KTNN của nhiều nước quy định rất rõ trách nhiệm này của KTNN, chẳng hạn như Trung Quốc quy định: “Đối với những cá nhân có trách nhiệm trong đơn vị hoặc những cá nhân chịu trách nhiệm trực tiếp về hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ thu chi ngân sách của đơn vị, nếu cơ quan kiểm toán xét thấy hành vi của họ nên bị xử lý theo Luật định, cơ quan kiểm toán sẽ đưa ra đề nghị để thực hiện việc xử lý đó. Đơn vị được kiểm toán, cơ quan cấp trên hoặc cơ quan giám sát đơn vị này sẽ ra quyết định truy tố mà không có sự trì hoãn nào” (Điều 46).
 
Trên cơ sở những nhận xét tổng quát rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xử lý các hành vi vi phạm Luật KTNN đã cho chúng ta những kinh nghiệm và bài học quý báu để tham khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật quy định về xử lý vi phạm Luật KTNN. Cụ thể là:
 
Thứ nhất, ở nước ta, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan mối được thành lập, không có tổ chức tiền thân và chưa có tiền lệ hoạt động, do vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ và toàn diện cho tổ chức và hoạt động của KTNN là điều cấp thiết, tạo cơ sở cho việc tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước. Yêu cầu của tính toàn diện của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước thể hiện ở sự đầy đủ các chế định pháp luật, các khía cạnh pháp lý và quy phạm pháp luật ngay trong bản thân nội dung Luật Kiểm toán nhà nước, các luật khác có liên quan và được cụ thể hoá ở các văn bản hướng dẫn thi hành. Do vậy, cần hoàn thiện Luật KTNN theo hướng bổ sung các điều khoản quy định những hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước phải bị xử lý theo quy định của pháp luật; đồng thời, bổ sung quyền của Kiểm toán Nhà nước về xử lý các hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước theo quy định của pháp luật.
 
Thứ hai, đối với những hành vi vi phạm các điều cấm được quy định tại Điều 12 Luật Kiểm toán nhà nước mà có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, những hành động cản trở các kiểm toán viên trong khi thực hiện các quyền hạn theo luật định của họ hoặc những hành động cất dấu hoặc tiêu hủy các hồ sơ tài hiệu phải bị xử lý nghiêm khắc bằng các biện pháp chế tài hình sự (phạt tù, phạt tiền hoặc áp dụng cả hình phạt tù và hình phạt tiền). Để thực hiện yêu cầu này cần xem xét bổ sung vào Bộ Luật hình sự của nước Công hoà XHCN Việt Nam những điều khoản tương ứng về hành vi vi phạm và hình phạt đối với các hành vi vi phạm Luật KTNN nêu trên, tạo cơ sở pháp lý cho việc xem xét, áp dụng chÕ tµi hình sự đối với các hành vi đó.
 
Thứ ba, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước. Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa có văn bản QPPL nào quy định về xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm Luật KTNN. Do vậy, để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và toàn diện cho việc xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động KTNN, cần xem xét sửa đổi, bổ sung Luật xử lý vi phạm hành chính để bổ sung hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Kiểm toán Nhà nước.
 
Trước mắt cần kiến nghị Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước. Việc kiến nghị Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước dựa trên cơ sở pháp lý:
 
- Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006.  Luật Kiểm toán nhà nước không chỉ quy định về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của KTNN mà còn quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và những hành vi bị nghiêm cấm đối với đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan. Đó chính là cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên cho việc tiến hành xử lý các hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan.
 
- Ngày 18/8/2008 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2008/NĐ-CP về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Tại Điều 15 của Nghị định đã quy định rõ các hành vi vi phạm về công khai kết quả kiểm toán bao gồm:  “công khai không đầy đủ nội dung, hình thức, thời hạn quy định; công khai tài liệu, số liệu sai sự thật; công khai tài liệu, số liệu thuộc bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp của cơ quan, đơn vị, tổ chức được kiểm toán theo quy định của pháp luật; đưa tin, bài phản ánh về công khai kết quả kiểm toán không chính xác, không trung thực, khách quan”. Đồng thời, quy định rõ việc xử lý đối với hành vi vi phạm cụ thể như sau:  “cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về công khai kết quả kiểm toán theo quy định của Nghị định này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Đây là văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý trực tiếp để Chính phủ ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.

- Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013 tuy chưa có quy định về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, nhưng đã quy định nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính và những quy định có tính chất định hướng cho việc quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước. Luật Xử lý vi phạm hành chính giao cho Chính phủ:  “quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và quy định mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính” (Điều 4 Luật). Điều 24 của Luật Xử phạt vi phạm hành chính quy định mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước; trong đó khoản 4 quy định: “Mức phạt tiền tối đa đối với lĩnh vực mới chưa được quy định tại khoản 1 Điều này do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội”.
 
Từ những căn cứ trên đây cho thấy việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước thuộc thẩm quyền quy định của Chính phủ  sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
 
Phạm vi điều chỉnh của Nghị định chủ yếu là những vấn đề về: Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước; hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước; hình thức xử phạt; mức phạt; thẩm quyền xử phạt và thủ tục xử phạt và một số nội dung khác mang tính kỹ thuật.
 
Thứ tư, quy định cụ thể hành vi vi phạm Luật KTNN và hình thức kỷ luật đối với công chức, Kiểm toán viên nhà nước. Đối với những hành vi vi phạm chế độ công vụ của Kiểm toán viên và những cán bộ, công chức khác của KTNN có liên quan trong khi thi hành nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực KTNN mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, chứ không bị xử phạt hành chính. Do vậy, cần có văn bản QPPL của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định cụ thể hành vi vi phạm pháp luật và hình thức kỷ luật đối với công chức, Kiểm toán viên nhà nước cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức năm 2008 và đặc thù nghề nghiệp của hoạt động kiểm toán nhà nước./.

ThS. Đặng Văn Hải
(Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế - Kiểm toán Nhà nước)

Tài liệu tham khảo:
-    Luật Kiểm toán nhà nước Việt Nam;
-    Luật Kiểm toán nhà nước Trung Quốc;
-    Luật Kiểm toán nhà nước Vương quốc Cămpuchia;
-    Luật Kiểm toán nhà nước Hàn Quốc;
-    Luật Kiểm toán nhà nước CHLB Đức;
-    Luật Kiểm toán nhà nước CH Pháp;
-    Luật Kiểm toán nhà nước CH Séc.


Xem thêm »