ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN NGÂN SÁCH BỘ, NGÀNH ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN

14/04/2010
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

  Ngân sách bộ, ngành là bộ phận quan trọng của ngân sách nhà nước, chi ngân sách bộ, ngành chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm và có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế- xã hội của toàn bộ quốc gia. Chính vì thế để hoàn thành nhiệm vụ là công cụ kiểm tra tài chính công quan trọng của Nhà Nước thì Kiểm toán Nhà nước phải không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán ngân sách bộ, ngành. Những năm gần đây tuy phạm vi, qui mô kiểm toán ngân sách bộ, ngành ngày càng được mở rộng, chất lượng kiểm toán ngày càng được nâng lên nhưng công tác kiểm toán đã bộc lộ nhiều hạn chế cần phải đổi mới, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn.

  Việc đổi mới, hoàn thiện công tác kiểm toán ngân sách bộ, ngành xuất phát từ những lý do sau: (1) Để không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán nhằm cung cấp số liệu, tình hình phục vụ cho việc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước. Ngân sách bộ, ngành là bộ phận quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách nhà nước nên kết quả kiểm toán ngân sách bộ, ngành ảnh hưởng trực tiếp đến báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước. Mục tiêu lớn nhất, cuối cùng của hoạt động kiểm toán Nhà nước là có ý kiến về quyết toán ngân sách nhà nước, để đáp ứng được yêu cầu đó công tác kiểm toán phải xác nhận được báo cáo quyết toán ngân sách bộ, ngành- bộ phận của báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước. (2) Đổi mới và hoàn thiện công tác kiểm toán ngân sách bộ, ngành để phù hợp với các qui định của Luật Kiểm toán nhà nước. Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản hướng dẫn Luật qui định rất nhiều nội dung về tổ chức công tác kiểm toán như các loại hình kiểm toán áp dụng khi tiến hành kiểm toán; qui trình kiểm toán; qui định về lập, phát hành báo cáo kiểm toán, hồ sơ kiểm toán... nên cách thức tổ chức kiểm toán ngân sách bộ, ngành cũng phải đổi mới cho phù hợp trong điều kiện thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước. (3) Việc tổ chức công tác kiểm toán ngân sách bộ, ngành thời gian qua còn nhiều bất cập làm hạn chế chất lượng kiểm toán. (4) Cách hiểu phạm vi, đối tượng về kiểm toán ngân sách bộ, ngành chưa thống nhất nên ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch kiểm toán và tổ chức hoạt động kiểm toán. Như vấn đề phạm vi, mục tiêu kiểm toán các doanh nghiệp trực thuộc bộ, ngành (các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các tổng công ty...); phạm vi và giới hạn kiểm toán các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư khi kiểm toán ngân sách bộ, ngành chưa có quan điểm thống nhất để tổ chức thực hiện. Hiện nay các đơn vị được lựa chọn kiểm toán chưa bao quát hết đối tượng được kiểm toán (toàn bộ các hoạt động liên quan đến ngân sách, tiền và tài sản của bộ, ngành và các đơn vị trực thuộc); phạm vi kiểm toán chỉ đơn thuần là kinh phí do bộ, ngành và các đơn vị trực thuộc quản lý, sử dụng và quyết toán chưa bao quát hết nhiệm vụ quản lý tài chính, ngân sách theo lĩnh vực phân công cho bộ, ngành nên cần phải có sự điều chỉnh nhận thức về đối tượng, phạm vi kiểm toán ngân sách bộ, ngành. (5) Vấn đề đổi mới công tác quản lý tài chính của bộ, ngành cũng đặt ra yêu cầu phải đổi mới, hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán. Hiện nay việc quản lý ngân sách bộ, ngành ngày càng chặt chẽ, các tiêu chuẩn định mức chi tiêu được ban hành, sửa đổi dần đáp ứng được yêu cầu kiểm soát chi; xu thế quản lý tài chính hiện nay theo hướng phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sử dụng ngân sách; tăng cường vai trò quản lý ngành, lĩnh vực cho các bộ ngành; chuyển đổi cơ chế quản lý đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, hầu hết các chương trình đã chuyển đổi cơ chế cấp kinh phí như cấp vào cân đối ngân sách địa phương, phân giao kinh phí, trách nhiệm quản lý và quyết toán cho các bộ, ngành trực tiếp sử dụng kinh phí... dẫn đến cần có phương thức tổ chức, cách thức kiểm toán thích hợp. Như vậy, thực trạng kiểm toán và yêu cầu nâng cao chất lượng kiểm toán đã và đang đặt ra việc nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện tổ chức kiểm toán ngân sách bộ, ngành như một tất yếu trong quá trình phát triển của Kiểm toán Nhà nước. Để nâng cao chất lượng kiểm toán ngân sách bộ, ngành cần đổi mới, hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán ngân sách bộ, ngành theo hướng sau: (1) Tăng cường hoạt động kiểm toán ngân sách bộ, ngành cả chiều rộng và chiều sâu theo hướng kiểm toán thường xuyên đối với các bộ, ngành lớn; tăng qui mô chọn mẫu khi kiểm toán báo cáo quyết toán; thực hiện nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề. Việc kiểm toán thường xuyên các bộ, ngành hoàn toàn phù hợp với qui định của pháp luật về ngân sách nhà nước và bảo đảm tính liên tục trong hoạt động kiểm toán, tiết kiệm được chi phí, nhân lực cho việc khảo sát, thu thập thông tin kết hợp với việc tăng qui mô chọn mẫu sẽ có điều kiện kiểm toán toàn diện báo cáo quyết toán ngân sách đảm bảo đủ căn cứ để xác nhận báo cáo quyết toán ngân sách bộ, ngành. Đồng thời tăng cường các cuộc kiểm toán chuyên đề để đi sâu kiểm toán những lĩnh vực trọng yếu của ngân sách bộ, ngành mà kiểm toán trên diện rộng, toàn bộ quyết toán ngân sách khó bảo đảm kết quả cao. (2) Xác định đúng đắn cả về nhận thức lẫn thực tiễn về phạm vi, đối tượng kiểm toán ngân sách bộ, ngành để bao quát hết các nhiệm vụ của bộ, ngành trong quản lý tài chính ngân sách và toàn bộ hoạt động liên quan đến sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Đối tượng kiểm toán phải hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước của bộ, ngành. Đối tượng đó không chỉ đơn thuần là các thông tin tài chính mà cả những vấn đề, thông tin nhìn bề ngoài không liên quan đến tài chính như cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy, nhân sự, biên chế... những nhân tố này liên quan đến việc sử dụng bao nhiêu tiền, tài sản và sử dụng như thế nào để tiết kiệm chi phí nhất. Như vậy đối tượng kiểm toán bao gồm việc tổ chức bộ máy để thực hiện nhiệm vụ (cả công tác tổ chức bộ máy để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cũng như tổ chức bộ máy kiểm soát nội bộ, bộ máy quản lý tài chính kế toán); trách nhiệm của cá nhân, tập thể trong việc sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; công tác quản lý, điều hành ngân sách từ khâu lập, chấp hành đến kế toán quyết toán ngân sách tại bộ, ngành và tại các đơn vị trực thuộc; việc quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí thuộc ngân sách nhà nước và tài sản nhà nước từ cấp bộ, ngành đến các đơn vị cấp dưới. Phạm vi kiểm toán hiện nay theo các quyết định kiểm toán thông thường là Báo cáo quyết toán ngân sách bộ, ngành của 1 năm ngân sách và các thời kỳ trước, sau có liên quan. Tuy nhiên phạm vi này chưa bao quát hết đối tượng kiểm toán tại các bộ, ngành vì kinh phí được kiểm toán chỉ đơn thuần là phần kinh phí do bộ, ngành trực tiếp quản lý, sử dụng chưa đề cập đến nhiệm vụ quản lý tài chính ngân sách theo lĩnh vực. Đồng thời nếu hiểu một cách đơn thuần thì chỉ là báo cáo quyết toán của bộ, ngành tổng hợp từ các đơn vị trực thuộc, còn lại tiền và tài sản nhà nước thuộc trách nhiệm quản lý của bộ, ngành tại các doanh nghiệp trực thuộc, tại các đơn vị bên ngoài bộ, ngành không thuộc phạm vi kiểm toán. Nên để kiểm toán toàn diện ngân sách, tiền và tài sản của bộ, ngành thì phạm vi kiểm toán phải là báo cáo quyết toán và các nội dung liên quan đến ngân sách, tiền và tài sản của một hoặc nhiều niên độ ngân sách (tùy thuộc vào qui mô kiểm toán và quyết định kiểm toán) thuộc trách nhiệm quản lý của bộ, ngành. Tức là không gian kiểm toán là tất cả các đơn vị có liên quan đến việc quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước (kể cả các doanh nghiệp trực thuộc và các đơn vị không phải là đơn vị trực thuộc bộ, ngành); thời gian kiểm toán tùy thuộc vào qui mô, tính chất của cuộc kiểm toán, có thể là một năm ngân sách hoặc nhiều năm ngân sách. (3) Kiểm toán để xác nhận báo cáo tài chính và có gắn kết với kiểm toán hoạt động trên cơ sở đẩy mạnh và nâng cao chất lượng kiểm toán tổng hợp cả chi thường xuyên, chi đầu tư và kiểm toán các khoản thu cũng như tăng cường đối chiếu việc tổng hợp số liệu lập báo cáo quyết toán; tập trung kiểm toán việc quản lý, điều hành ngân sách, việc phân cấp, giao quyền tự chủ, kinh phí tự chủ cho các đơn vị trực thuộc (các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ); đi sâu nghiên cứu cơ chế chính sách bộ, ngành đang áp dụng để kiến nghị bổ sung hoặc sửa đổi những cơ chế còn thiếu hoặc bất cập cho phù hợp thực tiễn. (4) Xây dựng riêng qui trình kiểm toán ngân sách bộ, ngành để áp dụng thống nhất cho quá trình kiểm toán. Qui trình phải chi tiết, cụ thể các nội dung để chỉ dẫn đầy đủ các bước công việc cho hoạt động kiểm toán từ việc xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp kiểm toán trong kế hoạch kiểm toán tổng quát cũng như kế hoạch kiểm toán chi tiết và quá trình kiểm toán. Đặc biệt phải chỉ dẫn rõ nội dung, cách thức, rủi ro thường gặp khi tiến hành kiểm toán tổng hợp tại các đơn vị trực thuộc và tại bộ, ngành; cách thức cũng như nội dung có thể tiến hành kiểm toán hoạt động; cách thức tiến hành những nội dung kiểm toán mang tính đặc thù của bộ, ngành như kiểm toán các đơn vị dự toán cấp II, kiểm toán vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư, kiểm toán các chương trình mục tiêu quốc gia... Qui trình phải bao quát hết các nội dung cần kiểm toán tại bộ, ngành kể cả việc quản lý tài chính ngân sách theo lĩnh vực do bộ, ngành phụ trách. (5) Tổ chức hợp lý công tác kiểm toán. Phân công hợp lý nhiệm vụ giữa KTNN các chuyên ngành, qui định rõ trách nhiệm của phó trưởng đoàn kiểm toán theo hướng gắn chặt với chuyên môn. Thay đổi và nâng cao chất lượng kế hoạch kiểm toán chi tiết để kế hoạch kiểm toán chi tiết thực sự là căn cứ, chỉ dẫn cho hoạt động của tổ kiểm toán; tăng cường công tác kiểm toán tổng hợp, đối chiếu việc tổng hợp số liệu, lập báo cáo ở các đơn vị trực thuộc cũng như tại bộ, ngành. Tăng cường mối quan hệ và gắn kết giữa kiểm toán chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, các khoản thu và việc chấp hành các luật thuế. (6) Tăng cường soát xét, kiểm soát để nâng cao chất lượng kiểm toán như chế độ báo cáo thông tin trong quá trình kiểm toán (báo cáo của tổ trưởng đối với trưởng đoàn, trưởng đoàn với Kiểm toán trưởng và với Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước); nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng thẩm định báo cáo kiểm toán cấp vụ; soát xét chất lượng hồ sơ, tài liệu, biên bản kiểm toán và báo cáo kiểm toán./.
Hoàng Hàm
Kiểm toán Nhà nước

Xem thêm »