“Dự thảo văn kiện của BCHTW (khoá VII) cần khẳng định cơ quan ktnn là một cơ quan công quyền, thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước ta...”

09/03/2009
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Trong Phần 4 của Dự thảo văn kiện của BCH (khoá VIII) trước Đại hội IX của Đảng, đoạn nói về: “Tiếp tục đổi mới công cụ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế” nêu rõ: “ Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch kết hợp thị trường với kế hoạch, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường công tác thông tin về kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác thống kê ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học - công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng chi NSNN, phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu chi ngân sách địa phương”.

 (Lược ghi bài phát biểu của Đồng chí ĐỖ BÌNH DƯƠNG, Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng Kiểm toán Nhà nước tiến tới đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9)

Trước hết, tôi bày tỏ sự nhất trí cao đối với các Dự thảo văn kiện của BCHTW (khoá VIII) trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 và Dự thảo Báo cáo của BCH Đảng bộ khối cơ quan Kinh tế TW. Sau đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm hai vấn đề chúng ta cùng nghiên cứu và thảo luận một cách xâu sắc hơn, toàn diện hơn, góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng:

Vấn đề thứ nhất:

Trong Phần 4 của Dự thảo văn kiện của BCH (khoá VIII) trước Đại hội IX của Đảng, đoạn nói về: “Tiếp tục đổi mới công cụ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế” nêu rõ: “ Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch kết hợp thị trường với kế hoạch, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường công tác thông tin về kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác thống kê ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học - công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng chi NSNN, phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu chi ngân sách địa phương”.

Thưa các đồng chí, minh bạch và công khai về tài chính là một trong những tiền đề quan trọng, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của chúng ta có đủ các điều kiện cần thiết để thúc đẩy tiến trình hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Xu hướng “ khu vực hoá” và “ toàn cầu hoá” nền kinh tế đòi hỏi các thông tin tài chính trước khi công bố cho các đối tượng sử dụng cần phải được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng, nói khác đi là phải đảm bảo độ tin cậy về những dữ liệu thông tin đó.

Vậy, cơ quan nào có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ đảm nhiệm chức năng này?

Có thể khẳng định rằng, hệ thống các công cụ kiểm tra kiểm soát ở Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đx có nhiều cố gắng trong việc ngăn chặn và sử lý những hành vi cố tình vi phạm pháp luật, đảm bảo sự trung thực của các thông tin tài chính nhưng vẫn thiếu tính độc lập, khách quan dẫn đến tình trạng phản ánh sai lệch và đương nhiên là các dữ liệu thông tin cần thiết sẽ không đảm bảo độ tin cậy. Theo kinh nghiệm của hầu hết các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển ở nhịp độ cao, bền vững, tiết kiệm và hiệu quả đều cần phải duy trì một hệ thống kiểm toán lành mạnh; trong đó, vị trí của cơ quan Kiểm toán tối cao ( hay còn gọi là Kiểm toán Nhà nước) với tư cách là cơ quan công 1quyền giữ vai trò hết sức quan trọng. Nó là một công cụ đắc lực không thể thiếu được để quản lý nền kinh tế của mỗi quốc gia. Song, khi bước vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta chưa tập trung đúng mức về sự cần thiết hình thành và tăng cường năng lực của hệ thống kiểm toán nói chung và Kiểm toán Nhà nước nói riêng.

Một nền kinh tế muốn phát triển với nhịp độ cao, bền vững, tiết kiệm, hiệu quả và an toàn thì nhất thiết phải được cung cấp đầy đủ các loại hình dịch vụ, các chuẩn mực, quy trình, kỹ thuật kiểm toán hoàn hảo và có chất lượng cao. Tăng cường hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động của KTNN nói riêng chính là sự gia tăng độ tin cậy cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng hướng và hoàn toàn chủ động trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, tránh được những cuộc rủi ro từ các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước trong khu vực châu Á vừa qua.

Trong thời đại ngày nay, bản thân hoạt động KTNN cũng không nằm ngoài xu hướng hội nhập của nền kinh tế toàn cầu. KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (asosai) và Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI), chúng ta không thể từ chối những thông lệ quốc tế mang tính bắt buộc. Theo quy chế của INTOSAI: “Cơ quan Kiểm toán tối cao được hiểu là một tổ chức công quyền của một quốc gia, dù được chỉ định, thiết lập, tổ chức theo các cách khác nhau, thực hiện theo luật định chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất của quốc gia đó” và “Cơ quan Kiểm toán tối cao được pháp luật đảm bảo tính độc lập”. Xuất phát từ những quy định mang tính nguyên tắc đó, cùng với thực tiễn hoạt động trong 6 năm qua, chúng ta cần phải tăng cường trao đổi kinh nghiệm về các loại hình kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính để làm cơ sở cho việc tiến hành kiểm toán hoạt động. Chỉ có như vậy, chúng ta mới đảm bảo cho sự phát triển bền vững làm điểm tựa để vươn tới những đòi hỏi cao hơn về kiểm toán các thiết bị xử lý dữ liệu điện tử (hay còn gọi là kiểm toán các thiết bị công nghệ tin học), kiểm toán môi trường, kiểm toán các thể chế siêu quốc gia và quốc tế, vv...

Đó là một lộ trình phản ánh theo quy luật khách quan: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hiện đại. Và, trong tương lai không xa, KTNN ngày càng phải đáp ứng những yêu cầu cao hơn của đòi hỏi trong nước và quốc tế. KTNN Việt Nam có khả năng làm được điều ấy không? Hiện nay chúng ta đã và đang tiến hành kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính là chủ yếu. Chỉ với hai loại hình kiểm toán này, cũng đang là một vấn đề rất khó đối với KTNN. Bởi vì, hệ thống luật pháp của chúng ta nói chung và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh tế - tài chính, ngân sách nói riêng chưa mang tính đồng bộ, tính hiệu quả và tính hiệu lực chưa cao. Một thực tế không thể phủ nhận là: Hầu hết các DNNN được kiểm toán đều không chấp hành nghiêm chỉnh Pháp luật Kế toán - Thống kê đã dẫn đến tình trạng thất thoát ngân sách, tài sản Nhà nước ngày càng lớn và khá phổ biến, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế đang trong quá trình định hình thể chế định hướng XHCN mà DNNN giữ vai trò chủ đạo. Trong 6 năm hoạt động của KTNN, kết quả kiểm toán đã tăng thu, tiết kiệm chi và đưa vào quản lý qua NSNN hàng ngàn tỷ đồng. Nhưng trong Dự thảo văn kiện của BCHTW (Khoá VIII) trình Đại hội IX của Đảng, những vấn đề đó nêu không rõ bằng Nghị quyết Đại hội VIII. Dự thảo ghi: “Phát triển mạnh và nâng chất lượng của các ngành dịch vụ thương mại điện tử, hàng không, bưu chính - viễn thông, Internet, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin đại chúng...”. Như vậy, Dự thảo dịch vụ chỉ nói đến dịch vụ kiểm toán chứ không phải là vai trò của KTNN. Bởi vì, dịch vụ kiểm toán hoạt động theo Luật doanh Nghiệp chứ không phải là một tổ chức công quyền. Các công ty dịch vụ và tư vấn về kế toán - kiểm toán ( hay còn gọi là công ty kiểm toán độc lập) lại không có quyền được kiểm toán các DNNN thuộc các lĩnh vực đặc biệt, các Bộ, ngành, đoàn thể và chính quyền các địa phương. Như vậy, trong Dự thảo văn kiện của BCHTW (khoá VIII) cần khẳng định cơ quan KTNN là một cơ quan công quyền, thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước ta. Với tư cách là một công cụ kiểm tra, kiểm soát nó cần phải được quan tâm thích đáng trong giai đoạn cách mạng mới. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, điều đó càng cần phải có sự quan tâm đúng mức, vừa thể hiện tính ưu việt, vừa nắm chắc công cụ để tiến hành kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hơn, kịp thời điều chỉnh các quan hệ tài chính Nhà nước. Đồng thời, cảnh báo nguy cơ khủng hoảng tài chính - tiền tệ do sự buông lỏng hoạt động kiểm tra, kiểm soát bên ngoài của các ngân hàng. Ngay ở Việt Nam, chúng ta chưa có điều kiện để tiến hành kiểm toán thường xuyên hoặc định kỳ đối với hoạt động của các ngân hàng nên xảy ra tình trạng thất thoát, đổ vỡ tài chính nghiêm trọng là điều không tránh khỏi.

Kết quả cuối cùng của hoạt động KTNN không phải là những con số đơn thuần mang ý nghĩa số học mà phải là những sản phẩm trí tuệ đích thực. Đó là : Kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn và hợp pháp của các số liệu, tài liệu kế toán theo pháp luật quản lý kinh tế đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp và các DNNN thụ hưởng NSNN. Kịp thời phát hiện, phòng ngừa và răn đe những hành vi cố tình vi phạm pháp luật. Cung cấp những dữ liệu thông tin đảm bảo độ tin cậy cao cho các cơ quan chức năng và nhà quản lý ra quyết định đúng đắn và chuẩn xác. Tư vấn cho các đơn vị được kiểm toán về công tác quản lý, điều hành và sử dụng hiệu quả NSNN và các nguồn lực tài chính theo khuôn khổ pháp luật. Nói một cách khái quát hơn là tham mưu cho Nhà nước sử dụng mọi nguồn lực tài chính đảm bảo tính hiệu quả, tính hiệu lực, tính kinh tế và tính tiết kiệm. Nếu chúng ta thoả mãn dừng lại không có sự vươn lên thì chẳng những không đáp ứng được yêu cầu, mà còn không xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, của nhân dân.

Để giải quyết được những vấn đề nêu trên, theo tôi cần phải có những điều kiện cơ bản sau:

Một là, nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý về KTNN, công bố các chuẩn mực kiểm toán quốc tế do INTOSAI ban hành phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các Quy trình phương pháp và kỹ thuật kiểm toán.

Hai là, tăng cường đào tạo. bồi dưỡng đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp công tâm, có trình độ chuyên môn giỏi cấp khu vực và quốc tế, thống thạo tin học và ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh). Tuyển chọn những kiểm toán viên đủ tiêu chuẩn và điều kiện để cử đi học ở nước ngoài theo quy hoạch.

Ba là, tăng cường cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật tiên tiến; áp dụng có hiệu quả công nghệ tin học vào hoạt động kiểm toán. Đồng thời, xúc tiến việc nối mạng thông tin dữ liệu với Chính phủ.

Bốn là, thiết kế và thực hiện một cơ chế kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt chất lượng của hoạt động kiểm toán và báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán hàng năm.

Vấn đề thứ hai:

Trong Phần 9 của Dự thảo văn kiện của BCHTW (khoá VIII) với tiêu đề: “Tiếp tục cải cách và hoàn thiện Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế”khi nói về “Nâng cao chất lượng giám sát của Nhà nước” có đoạn: “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, tổ chức và phương thức kiểm tra, giám sát theo nguyên tắc bình đẳng, dân chủ và công minh. Kết hợp kiểm tra của Đảng, giám sát kiểm tra của Nhà nước và giám sát của nhân dân, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan thông tin đại chúng và dư luận xã hội,…”. Rõ ràng, vấn đề đổi mới và hoàn thiện cơ chế, tổ chức và phương thức kiểm tra, giám sát…chính là nói đến một nhu cầu không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đó là vai trò của KTNN.

Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng quản lý, chức năng này càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tranh thủ những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Đến nay, KTNN đã tiến hành kiểm toán NSNN trên địa bàn 61 tỉnh, thành phố trực thuộc TW trong cả nước; 10 Bộ, ngành; 7 Quân khu, Quân chủng, Tổng cục và cục của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an; 10 công trình trọng điểm quốc gia; 6 chương trình mục tiêu của Chính phủ; 13/18 Tổng công ty 91; 30 Tổng công ty 90 và nhiều DNNN khác. Qua đó, KTNN đã phát hiện những sai phạm trong quá trình thực hiện thu chi NSNN, tăng thu và tiết kiệm chi cho NSNN trên 3.000 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế là gần 2.000 tỷ đồng, tiết kiệm chi NSNN là 800 tỷ đồng; đưa vào quản lý qua NSNN gần 700 tỷ đồng… góp phần chống lãng phí, chống thất thoát NSNN và công quỹ quốc gia, thiết lập trật tự, kỷ cương trong công tác quản lý tài chính; đồng thời cung cấp được một số thông tin dữ liệu tin cậy cho Chính phủ, Quốc hội, HĐND va UBND các cấp trong việc quản lý DNNN. Kiến nghị với các cơ quan chức năng tháo gỡ khó khăn hoặc đưa ra những giải pháp hữu hiệu trong việc củng cố các DNNN. Hoạt động của KTNN cùng với các công cụ kiểm tra, kiểm soát khác đã giúp cho các DNNN tự chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý nội bộ. Kết quả hoạt động kiểm toán ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của KTNN trong bộ máy Nhà nước và sự cần thiết phải tăng cường năng lực của KTNN như một công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính công không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền. Điều đó đặt ra cho chúng ta những thách thức mới trong quá trình định hướng chiến lược phát triển của toàn ngành. Trong thời gian tới, chúng ta cần phải tập trung trí tuệ, kiên quyết đột phá và giải quyết dứt điểm 3 nội dung quan trọng dưới đây:

Một là, về công tác cán bộ: Đến nay, cơ cấu tổ chức bộ máy của KTNN đã hình thành: Văn phòng KTNN Trung ương, 4 KTNN khu vực, 4 kiểm toán chuyên ngành và Trung tâm Khoa học & Bồi dưỡng cán bộ với 460 cán bộ, kiểm toán viên. Số cán bộ, kiểm toán viên có trình độ đại học và trên đại học đạt 88. Hàng năm, Ban cán sự, Đảng uỷ và Lãnh đạo KTNN luôn luôn quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, kiểm toán viên thông qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày từ 2-3 tháng về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức quản lý Nhà nước. Trong thời qua đã bổ nhiệm 01 đ/c Phó Tổng KTNN, 23 cán bộ cấp vụ và 84 cán bộ cấp phòng. Chú trọng cử cán bộ thi tuyển và tham gia các khoá sau đại học để từng bước hình thành đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên Nhà nước có chất lượng cao. Trong điều kiện hoạt động phân tán, đạo đức nghề nghiệp của tuyệt đại đa số cán bộ, kiểm toán viên Nhà nước đều thể hiện là người “đầy tớ trung thành của nhân dân”. Song, đã đến lúc chúng ta cần kiên quyết tiến hành việc rà soát về bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và năng lực tổ chức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ và kiểm toán viên Nhà nước – nhân tố quyết định vị trí pháp lý, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động KTNN.

Hai là, về công tác nghiên cứu khoa học: Hoạt động của kiểm toán nói chung và KTNN nói riêng ở nước ta còn rất mới mẻ. Vì vậy, việc nghiên cứu và hình thành hệ thống những cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm toán để vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn ở Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính cơ bản lâu dài. Song song với các cuộc kiểm toán theo chương trình, chúng ta cần khẩn trương chú trọng vào công tác nghiên cứu khoa học về lý luận và nghiệp vụ kiểm toán. Công tác này không chỉ giao cho Trung tâm khoa học và Bồi dưỡng cán bộ mà còn phải động viên đông đảo các cán bộ, kiểm toán viên, các nhà khoa học trong và ngoài ngành tích cực tham gia. Đến nay. KTNN đã nghiên cứu thành công và đưa vào ứng dụng 16 đề tài khoa học cấp Bộ, nhiều đề tài khoa học cấp cơ sở. Kết quả đó là cơ sở để KTNN soạn thảo và ban hành cuốn “Cẩm nang Kiểm toán viên Nhà nước” mà chúng ta đang áp dụng. Thông qua hoạt động thực tiễn, nhưng Hệ thống Chuẩn mực KTNN, Quy trình kiểm toán, Quy chế hoạt động của Đoàn KTNN, vv… đã nảy sinh những vấn đề cần phải xem xét bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng.

Ba là, về công tác chính trị tư tưởng: Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt, có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi cán bộ, kiểm toán viên Nhà nước. Bởi vì, người cán bộ cách mạng nói chung và người cán bộ, kiểm toán viên Nhà nước nói riêng chỉ thực sự hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao khi họ thực sự trung thành với Đảng, với Tổ Quốc XHCN và nhân dân. Dự thảo văn kiện của BCHTW (khoá VIII) trình Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: Con đường duy nhất đúng đắn mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn. Để đi đến đích cuối cùng, chúng ta không có cách nào khác là sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách của đời sống và vững vàng trước mọi bước ngoặt của lịch sử. Mọi thắng lợi của cách mạng đều xuất phát từ các Nghị quyết của Đảng. Mọi âm mưu gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ và “diễn biến hoà bình” thông qua các quan hệ kinh tế, tài chính đều phải được ngăn chặn và đẩy lùi. Đó cũng chính là một phần trách nhiệm hết sức to lớn của toàn thể cán bộ, kiểm toán viên Nhà nước.

TRẦN SOẠN lược ghi

Xem thêm »