“Quản lý, sử dụng vốn ODA - một số vấn đề về thực trạng, trách nhiệm và các giải pháp khắc phục”

09/03/2009
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Trước tiên tôi bày tỏ sự nhất trí cao với hệ thống giải pháp mà Chính phủ đã đề xuất nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đ ại hội Đ ảng lần thứ X và kế hoạch 5 năm 2006-2010. Trên cơ sở đó và đi sâu phân tích một số nội dung Báo cáo số 73 của Chính phủ về tình hình quản lý phân bổ sử dụng các nguồn vốn lớn, đặc biệt các vấn đề về vốn ODA do Bộ trưởng Bộ KH& ĐT Võ Hồng Phúc trình bày cho thấy những tồn tại và yếu kém trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đã được nhiều đại biểu Quốc hội lên tiếng, tôi xin đề cập kỹ hơn về tình hình quản lý, phân bổ và bố trí sử dụng vốn ODA, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN thực hiện theo qui định của Luật NSNN, Luật Đầu tư và cơ chế quản lý đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN.

Cơ chế quản lý và sử dụng vốn ODA ở nước ta hiện nay được thiết lập trên cơ sở Nghị định số 17/CP ngày 4/5/2001 của Chính phủ. Theo đó nhiệm vụ quản lý Nhà nước về vốn ODA được giao cho 6 cơ quan gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH& ĐT), Bộ Tài chính, Ngân Hàng Nhà nước, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ; vì vậy tôi không tán thành với ý kiến của Bộ trưởng Bộ KH& ĐT cho rằng những sai phạm xảy ra về quản lý sử dụng vốn ODA vừa qua do trách nhiệm của tập thể Chính phủ. Theo tôi, đây là trách nhiệm cụ thể của các thành viên Chính phủ đã nêu trên được phân công trách nhiệm quản lý nguồn vốn này. Quản lý cụ thể các chương trình, dự án ODA thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan chủ quản, cơ quan cấp Bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh; các ban quản lý dự án đều do cơ quan chủ quản ra quyết định thành lập và thay mặt quản lý trực tiếp các chương trình dự án theo phân công.

Qua thời gian thực hiện cơ chế quản lý vốn ODA như nêu trên, bên cạnh những kết quả đạt được đã phát sinh nhiều tồn tại vi phạm lớn. Điển hình như vụ vi phạm tại PMU 18 thuộc Bộ Giao thông - Vận tải, Dự án cải tạo và nâng cấp cảng Hải Phòng và nhiều dự án quan trọng thuộc ngành dầu khí v.v... Đ ã đến lúc Quốc hội cần dành nhiều thời gian xem xét và xử lý nghiêm minh; cần quy trách nhiệm rõ ràng và xử lý những sai phạm của tổ chức, cá nhân liên quan đến việc quản lý và sử dụng vốn ODA để tình trạng tham nhũng thất thoát, lãng phí ảnh hưởng đến chất lượng công trình, làm mất uy tín của Việt Nam đối với nhà tài trợ vốn ODA.

Về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA hiện nay có nhiều vấn đề rất đáng quan tâm đang đặt ra. Trước hết là trách nhiệm của Bộ KH& ĐT, Bộ Tài chính rồi đến các bộ, ngành hữu quan. Nghị định 17/CP đã xác định rõ trách nhiệm của Bộ KH& ĐT là cơ quan đầu mối, chủ trì trong việc vận động thu hút, điều phối, phân bổ quản lý và sử dụng vốn ODA. Bộ có 10 nhiệm vụ như soạn thảo chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA, chủ trì vận động vốn ODA, chủ trì kế hoạch bố trí vốn đối ứng và giải ngân vốn ODA, chủ trì theo dõi đánh giá hiệu quả các chương trình ODA... Luật Ngân sách năm 2002 đã quy định trách nhiệm của Bộ KH& ĐT tại Điều 22 và Điều 21 quy định trách nhiệm của Bộ Tài chính. Khoản 3 Điều 21 của Luật NSNN quy định trách nhiệm của Bộ Tài chính như sau: Thống nhất quản lý và chỉ đạo công tác thu thuế, phí, lệ phí, các khoản thu khác của NSNN, các nguồn viện trợ quốc tế, thống nhất quản lý Nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ Quốc gia. Điều 22 Luật NSNN quy định trách nhiệm của Bộ KH& ĐT như sau: Trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân trong đó cân đối tài chính, tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính, ngân sách; phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán NSNN, lập phương án phân bổ ngân sách Trung ương trong lĩnh vực phụ trách theo sự phân công của Chính phủ; phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.

Đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền theo quy định của pháp luật nêu trên cho thấy các Bộ, Ngành Trung ương, địa phương trong thời gian qua đã tích cực trong việc vận động thu hút, bố trí và sử dụng vốn ODA, góp phần bổ sung vốn đầu tư phát triển đất nước, số vốn cam kết của nhà tài trợ và tỷ lệ giải ngân đã tăng lên. Tuy nhiên, những thiếu sót và khiếm khuyết trong công tác quản lý và sử dụng vốn ODA đã phần nào được thể hiện trong báo cáo thẩm tra quyết toán NSNN năm 2004 của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội, đòi hỏi phải làm rõ trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan tham mưu giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về vốn ODA. Thứ nhất, đối với Bộ KH& ĐT, với vai trò là cơ quan chủ trì đầu mối trong việc quản lý và sử dụng vốn ODA mới tập trung sức lực ở khâu thu hút và vận động nguồn vốn ODA cho đầu tư phát triển, chưa quan tâm thoả đáng đến khâu theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện các dự án ODA, chưa đề xuất được hệ thống các biện pháp và cơ chế thích hợp để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Ngoài ra, cũng mới chỉ tập trung ở khâu giải ngân theo tiến độ đã thoả thuận với các nhà tại trợ mà chưa đi sâu đánh giá chất lượng, hiệu quả các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA. Thứ hai, Bộ Tài chính là cơ quan có trách nhiệm chính về quản lý tài chính đối với nguồn vốn ODA, quy định thủ tục rút vốn và quản lý rút vốn ODA, tổ chức cho vay lại và thu hồi vốn cho vay lại đối với các chương trình dự án ODA. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính còn có nhiệm vụ theo dõi và kiểm tra công tác tài chính và tài sản công của các dự án ODA, thực hiện thanh toán và trả nợ đối với nguồn vốn ODA. Để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ này, được biết Bộ Tài chính đã tổ chức tới 3 đầu mối tham gia vào việc kiểm soát chi và rải ngân vốn ODA. Có thể nói, quy trình kiểm soát chi và rải ngân nguồn vốn ODA của Bộ Tài chính về hình thức là rất chặt chẽ, nhưng trên thực tế công tác chỉ đạo kiểm tra, giám sát lại thiếu chặt chẽ nên chưa phát hiện kịp thời các vi phạm để có biện pháp ngăn chặn, chống tham nhũng kịp thời.

Đối với các bộ chủ quản và ban quản lý dự án, Nghị định 17/CP đã quy định 11 nhiệm vụ về quyền hạn của các cơ quan chủ quản, như: đề xuất các chương trình dự án ODA cần tài trợ để Bộ KH& ĐT thẩm định, trình Chính phủ, lập báo cáo nghiên cứu khả thi và tiền khả thi; ban hành quyết định thành lập Ban quản lý dự án; báo cáo tiến độ và tình hình thực hiện các chương trình dự án ODA. Theo các qui định hiện hành, ban quản lý dự án được bộ chủ quản lập ra bằng một quyết định, thay mặt bộ quản lý trực tiếp các chương trình, dự án theo sự phân công cụ thể. Tuy nhiên, hiện nay các bộ chủ quản nhìn chung mới nặng về khâu đề xuất, chuẩn bị Dự án ODA; đồng thời giao quá nhiều quyền cho các ban quản lý dự án nhưng lại coi nhẹ khâu kiểm tra, thanh tra, buông lỏng quản lý dẫn đến tình trạng nhiều ban quản lý dự án mắc sai phạm nghiêm trọng như PMU18.

Với bài học kinh nghiệm được rút ra từ những vấn đề tiêu cực, tham nhũng gần đây, không chỉ với nguồn vốn ODA mà còn cả vốn tín dụng nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ mặc dù được kiểm soát từ nhiều chiều, nhiều phía nhưng vẫn để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng, vi phạm pháp luật, trong đó có phần trách nhiệm lớn của Bộ KH& ĐT với vai trò là tham mưu cho Chính phủ và trách nhiệm của các bộ quản lý tổng hợp. Tuy nhiên, có thể khẳng định trách nhiệm chủ yếu thuộc về các bộ chủ quản với chức năng nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo thực hiện dự án từ khâu lập dự án đến khâu thẩm định, quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu, thi công, giám sát, kiểm định chất lượng, nghiệm thu, đề xuất thanh toán, đề nghị thanh toán và đặc biệt là phê duyệt quyết toán theo sự phân công và bàn giao công trình đưa vào sử dụng.

Qua thảo luận, đa số đại biểu tỏ ý đồng ý với các giải pháp Bộ trưởng Bộ KH& ĐT đã trình bày, tuy nhiên từ thực trạng quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài nói chung và vốn ODA nói riêng, Quốc hội cần lưu ý một số vấn đề nhằm khắc phục những mặt còn tồn tại, cụ thể như sau:

Thứ nhất, nguồn vốn ODA khi đã được ký kết là nguồn vốn NSNN và nợ nước ngoài của Nhà nước, cần đưa vào cân đối NSNN, hàng năm trình Quốc hội xem xét quyết định cùng với dự toán NSNN. Quy trình quản lý và quyết toán vốn ODA thực hiện theo quy định của Luật NSNN.

Thứ hai, các quy định pháp lý về ODA hiện nay chưa đồng bộ, tản mạn, tính pháp lý chưa cao, đề nghị Chính phủ khẩn trương sửa đổi khung pháp lý về quản lý và sử dụng vốn ODA cho phù hợp với quy định của Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Ký kết và thực hiện các Điều ước quốc tế đã được Quốc hội thông qua. Cũng cần sớm đặt vấn đề nghiên cứu, trình Quốc hội ban hành luật về quản lý vốn ODA và thay thế cho các Nghị định và văn bản còn phân tán trước đây.

Thứ ba, ban hành các chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của người quyết định đầu tư. Về quy định đầu tư sai gây lãng phí, thất thoát phải xử lý hành chính, trách nhiệm hình sự hoặc cách chức, miễn nhiệm. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả, chất lượng của dự án; chấm dứt tình trạng giao cho người không đủ điều kiện, năng lực về chuyên môn nghiệp vụ thực hiện quản lý dự án. Sắp xếp lại các ban quản lý dự án theo các tiêu chí và tiêu chuẩn phù hợp. Chủ đầu tư phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát thường xuyên các ban quản lý dự án, phát hiện kịp thời những vấn đề phát sinh và đề xuất biện pháp xử lý.

Thứ tư, Bộ KH& ĐT cần sớm đưa ra mô hình quản lý dự án ODA phù hợp, trong đó xác định rõ tính pháp lý của các ban quản lý theo hướng đảm bảo tính chuyên nghiệp, tăng cường tính minh bạch, chống khép kín và tự chịu trách nhiệm. Bộ Tài chính cần kiện toàn hệ thống quản lý tài chính, đặc biệt là khâu kiểm soát và quyết toán công trình sử dụng vốn ODA; kho bạc nhà nước cần tăng cường công tác đối chiếu, kiểm soát chi theo tính hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu, hồ sơ thanh toán, phát hiện kịp thời việc lập chứng từ sai quy định, móc ngoặc giữa ban quản lý dự án với nhà thầu tư vấn giám sát để khai khống, rút ruột công trình và vốn Nhà nước.

Thứ năm, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đối chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Kiến quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán./.

Xem thêm »