Sủ dụng báo kiểm toán phục vụ giám sátcủa quốc hội, hội đồng nhân dân

09/03/2009
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Hoạt động quản lý của Nhà nước đòi hỏi phải có những thông tin đúng đắn, trung thực để phục vụ cho việc điều hành nền kinh tế vĩ mô bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế. Đặc biệt, các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước (NSNN) phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia

Hoạt động quản lý của Nhà nước đòi hỏi phải có những thông tin đúng đắn, trung thực để phục vụ cho việc điều hành nền kinh tế vĩ mô bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế. Đặc biệt, các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước (NSNN) phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia… càng cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững của nền kinh tế. Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là công cụ kiểm tra, kiểm soát và giám sát quá trình quản lý, điều hành và sử dụng NSNN, tiền và tài sản nhà nước. Vì vậy, ở mỗi quốc gia đều thiết lập một cơ quan KTNN có vị trí pháp lý cao, được pháp luật bảo đảm tính độc lập để thực hiện chức năng kiểm toán, xác nhận độ tin cậy của thông tin tài chính ngân sách nhằm phục vụ cho việc quản lý, giám sát hoạt động kinh tế – tài chính quốc gia. Ở Việt Nam, Luật kiểm toán nhà nước đã ghi rõ: "Hoạt động kiểm toán nhà nước phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước".

Qua đó có thể thấy, KTNN được sử dụng như một công cụ quan trọng trong kiểm soát các hoạt động kinh tế- tài chính của Nhà nước. Mọi hoạt động liên quan đến kinh tế - tài chính nhà nước ở các cơ quan, đơn vị có quản lý và sử dụng các nguồn lực công đều chịu sự kiểm tra của cơ quan KTNN. Ngoài chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của số liệu báo cáo quyết toán ngân sách, KTNN còn thực hiện kiểm toán tính tuân thủ, tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả việc quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản nhà nước.KTNN cung cấp các thông tin, dữ liệu tin cậy cho các cơ quan quản lý thấy rõ thực trạng hoạt động kinh tế, ngân sách; đồng thời kiến nghị các biện pháp chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng NSNN, tiền và tài sản nhà nước. Kết quả hoạt động của KTNN thể hiện qua sản phẩm là báo cáo kiểm toán. Khoản 2 Điều 9 của Luật KTNN quy định về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán: “Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là một trong những căn cứ để:

a) Quốc hội sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án và công trình quan trọng quốc gia được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước; xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước và sử dụng trong hoạt động giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước, dự án và công trình quan trọng quốc gia, chương trình phát triển kinh tế- xã hội, dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác;

b) Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức, cơ quan khác của Nhà nước sử dụng trong công tác quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của mình;

c) Hội đồng nhân dân sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán, phân bổ và giám sát ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương;

d) Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra sử dụng trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, tài chính;

đ) Đơn vị được kiểm toán phải thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật; thực hiện các biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do Kiểm toán Nhà nước phát hiện và kiến nghị.”.

Nội dung chủ yếu của báo cáo kiểm toán thể hiện trên mấy điểm sau đây:

- Một là, báo cáo kiểm toán xác nhận tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các thông tin, số liệu về quyết toán NSNN, về hoạt động kinh tế- tài chính là cơ sở để Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan quản lý xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN và quyết định về nhiệm vụ ngân sách, kinh tế- xã hội. Trong quá trình xây dựng và xem xét, quyết định các chính sách kinh tế - xã hội, nhiệm vụ NSNN đòi hỏi phải có đủ những tư liệu, thông tin minh bạch và có độ tin cậy cao. Quốc hội thảo luận và cho ý kiến về tình hình kinh tế - xã hội, về tài chính và NSNN, ngoài các thông tin do Chính phủ và cơ quan của Chính phủ cung cấp, thông tin do Quốc hội thu thập được qua hoạt động giám sát, tổng hợp ý kiến của cử tri, còn rất cần các thông tin do cơ quan chuyên môn độc lập cung cấp. Thông tin của KTNN cung cấp cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng đảm bảo độ tin cậy và tính trung thực cao bởi do các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, độc lập với cơ quan quản lý và điều hành và được thực hiện theo các chuẩn mực nghề nghiệp một cách khắt khe. Trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán viên thu đã thu thập một cách độc lập, khách quan các bằng chứng về các vấn đề kiểm toán từ đó có những kết luận, xác nhận trung thực về thực trạng hoạt động kinh tế, tài chính, về sự đầy đủ và chính xác của thông tin. Vì vậy, Quốc hội, Hội đồng nhân dân có đủ căn cứ tin cậy khi sử dụng những thông tin đã được KTNN kiểm tra, xác nhận để thảo luận, quyết định dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán NSNN và về những vấn đề kinh tế, ngân sách khác.

- Hai là, báo cáo kiểm toán phân tích, đánh giá các thông tin, dữ liệu đã được kiểm toán để các cơ quan quản lý thấy rõ thực trạng hoạt động kinh tế - tài chính, công tác quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Hoạt động kiểm toán rộng về đối tượng, sâu về nội dung và đa dạng về hình thức. KTNN có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng nguồn lực công. Ngoài việc kiểm toán, xác định độ tin cậy của các thông tin, báo cáo kiểm toán còn xem xét, đánh giá tính tuân thủ, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, điều hành hoạt động kinh tế và ngân sách. Về hình thức, KTNN có thể tiến hành kiểm toán trước, trong và sau quá trình hoạt động. Thông qua phân tích, đánh giá số liệu đã được kiểm toán, KTNN phản ánh một cách trung thực "bức tranh toàn cảnh" về thực trạng ngân sách; đưa ra các ý kiến đánh giá tổng quát về tính bền vững của NSNN và tính đầy đủ của thu, chi ngân sách. Trong khi các hoạt động của NSNN (thể hiện qua quyết toán NSNN) lại phản ánh các hoạt động của nền kinh tế. Các chỉ tiêu thu, chi ngân sách về tổng số cũng như từng lĩnh vực thể hiện khả năng phát triển kinh tế đối với từng lĩnh vực. Chẳng hạn như trong báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN, KTNN đánh giá tổng thể thực trạng NSNN về tổng thu, tổng chi và cân đối thu- chi; tốc độ tăng thu, tăng chi và mối quan hệ so sánh giữa chúng; phân tích, chỉ ra: tính hợp lý của quy mô thu ngân sách so với GDP; khả năng bảo đảm của thu từ thuế, phí và lệ phí cho các nhu cầu chi thường xuyên và có phần dành cho đầu tư phát triển; vay nợ và trả nợ; bội chi ngân sách và nguồn bù đắp bội chi. Mặt khác, thông qua kiểm toán quyết toán NSNN hàng năm, có điều kiện để so sánh đối chiếu và chỉ ra xu hướng thu, chi ngân sách trong một thời kỳ và qua đó cho ta thấy xu hướng phát triển kinh tế một thời kỳ đã qua. Qua kết quả kiểm toán, KTNN cũng chỉ ra những nguy cơ có thể đưa lại những rủi ro trong phát triển kinh tế cũng như đối với thu chi ngân sách từ đó các cơ quan quản lý có thể sử dụng có giải pháp thích hợp để ngăn chặn các rủi ro cho nền kinh tế nói chúng và chính sách tài chính tiền tệ nói riêng.

Đối với các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, mặc dù không trực tiếp kiểm toán, nhưng thông qua kiểm toán các hoạt động ngân sách, các đơn vị kinh tế chủ lực, KTNN có thể đánh giá những ảnh hưởng đến tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, tính bền vững và chất lượng của tăng trưởng kinh tế, các cân đối kinh tế vĩ mô (sản xuất- tiêu dùng, tích luỹ- tiêu dùng, cân đối ngân sách…). Chẳng hạn, qua kết quả kiểm toán tại các đơn vị kinh tế nói chung cho thấy rõ vai trò, hiệu lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, những vấn đề về lao động, việc làm, khả năng hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế; kiểm toán tại các doanh nghiệp nhà nước, KTNN chỉ ra thực trạng hoạt động, chi phí và hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường của doanh nghiệp, khả năng thu nộp NSNN…; kiểm toán tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính- tín dụng sẽ cho thấy chất lượng hoạt động tiền tệ - tín dụng, những rủi ro tín dụng, tỷ lệ nợ xấu… Đây là những thông tin quan trọng để Chính phủ, Quốc hội sử dụng trong xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ổn định và vững chắc, đề ra các giải pháp để phát triển sản xuất kinh doanh, tăng quy mô, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế; đặc biệt là các chính sách thu NSNN nhằm động viên GDP một cách hợp lý vào NSNN, bảo đảm giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa Nhà nước- doanh nghiệp và dân cư, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa đầu tư cho phát triển và đầu tư cho con người… Thông qua kiểm toán chi NSNN cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án đầu tư, các chính sách mới, KTNN đánh giá hiệu quả của chúng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước, việc thực hiện các mục tiêu về xã hội… Đối với chi đầu tư phát triển, KTNN giúp Chính phủ, Quốc hội thấy rõ thực trạng đầu tư dàn trải, những bất hợp lý trong các chính sách đầu tư, tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản… và những tác động xấu của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội để từ đó kiến nghị các giải pháp hữu hiệu để khắc phục.

- Ba là, báo cáo kiểm toán kiến nghị các biện pháp điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế, chính sách, công tác quản lý. KTNN tham gia với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quyết định các chính sách về tài chính, ngân sách; xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính, ngân sách. Đây chính là hoạt động tư vấn của cơ quan KTNN. Tuyên bố Lima nêu rõ: "Trong trường hợp quan trọng, KTNN có thể cung cấp cho Nghị viện và chính quyền các kiến thức nghiệp vụ của mình dưới hình thức các ý kiến chuyên môn, kể cả những gúp ý về các đạo luật đang được soạn thảo hoặc các quy chế tài chính khác". Một trong những loại hình kiểm toán chủ yếu là kiểm toán tuân thủ, tức là kiểm toán tình hình chấp hành Luật NSNN, Luật Kế toán, các luật thuế và văn bản quy phạm pháp luật khác. Thông qua kiểm toán, ngoài việc xác định rõ thực trạng tình hình chấp hành pháp luật, KTNN còn phát hiện những hạn chế, bất cập của các văn bản pháp luật, đặc biệt là những văn bản pháp luật và chính sách đã lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn; đồng thời phát hiện các lỗ hổng, sự chồng chéo của hệ thống pháp luật. Trên cơ sở đó, KTNN kịp thời kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách và chế độ quản lý.

Việc cung cấp thông tin cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng như các hoạt động khác đều thực hiện thông qua nghĩa vụ báo cáo của KTNN về các vấn đề liên quan trong công tác quản lý tài chính, ngân sách và tài sản công. Các báo cáo của KTNN có thể dưới dạng báo cáo thường niên hoặc báo cáo đặc biệt theo sáng kiến của cơ quan KTNN, cũng có thể là báo cáo theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân. Luật KTNN quy định KTNN có nhiệm vụ kiểm toán theo “yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ” và “xem xét, quyết định việc kiểm toán khi Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có yêu cầu”. Như vậy, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân có thể yêu cầu KTNN thực hiện kiểm toán, đánh giá và nêu ý kiến về một vấn đề kinh tế, tài chính, ngân sách nào đó để có cơ sở khách quan, tin cậy trong đánh giá tình hình thực tế và xây dựng luật, pháp lệnh, cơ chế, chính sách.

Một hoạt động tư vấn thường xuyên, định kỳ hàng năm của KTNN là trình ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Đây là hình thức tiền kiểm của KTNN, qua kiểm toán có thể chỉ ra những sai lệch của dự toán NSNN so với các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm, đảm bảo các nguồn lực được động viên và phân bổ vào những mục tiêu quốc gia cũng như tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của các khoản chi NSNN; tránh được những sai phạm ngay từ khi lập và phân bổ dự toán… Một hoạt động tư vấn khác nữa của KTNN cũng khá quan trọng đã được quy định trong Luật KTNN, đó là: trợ giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng các công trỡnh trọng điểm của quốc gia.Việc đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia không chỉ liên quan đến chi NSNN, mà cũn liờn quan đến chiến lược phát triển quốc gia. Điều đó đòi hỏi không chỉ được xem xét về mặt kỹ thuật mà cũng phải xem xét các khía cạnh kinh tế, xã hội…Trong điều kiện đó nếu không có một cơ quan độc lập với cơ quan soạn thảo, có đủ năng lực về chuyên môn, tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi Chính phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân thảo luận và quyết định có thể sẽ gây ra những rủi ro cho các quyết định đầu tư. Kinh nghiệm của nhiều nước, nhất là những nước có lịch sử phát triển KTNN lâu đời đều giao cho cơ quan KTNN thực hiện nhiệm vụ này.

Để nâng cao chất lượng kiểm toán, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của Quốc hội trong việc thẩm tra tình hình kinh tế, xã hội và NSNN; nâng cao chất lượng thông tin của KTNN phục vụ ngày càng tốt hơn cho Chính phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong việc đánh giá và xác định nhiệm vụ kinh tế- xã hội và NSNN, cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

(1) Cần đỏi mới công tác xây dựng kế hoạch kiểm toán, nhằm phục vụ một cách tốt nhất yêu cầu thẩm tra, giám sát ngân sách của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội. Kế hoạch kiểm toán của KTNN phải gắn hoạt động thẩm tra, giám sát của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội. Muốn vậy, các đơn vị tham mưu của KTNN phải phối hợp chẽ với các cơ quan ccủa Chính phủ, Quốc hội, luôn nghiên cứu tình hình kinh tế, tài chính vĩ mô, sự biến động của hoạt động kinh tế từ đó định hướng cho hoạt động kiểm toán đảm bảo đánh giá được một cách đầy đủ, chính xác các hoạt động kinh tế tài chính trong năm cũng như qua các thời kỳ. Kế hoạch kiểm toán hàng năm phải hướng vào những yêu cầu của Quốc hội theo những chủ đề tập trung thảo luận và quyết định trong từng kỳ họp; những vấn đề đang được dư luận quan tâm; việc thực hiện các chính sách, quy định mới; tăng cường kiểm toán, đánh giá về chính sách, về tính hiệu quả của hoạt động kinh tế, hoạt động đầu tư và thu, chi ngân sách.

(2) Phát triển đầy đủ các loại hình kiểm toán trên cơ sở kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ là chính nhằm mục tiêu xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán, kết hợp kiểm toán hoạt động nhằm kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Hoàn thiện công tác kiểm toán báo cáo tài chính để xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, cung cấp dữ liệu tin cậy cho Chính phủ trong công tác điều hành, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trong xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách và công tác giám sát. Từng bước thực hiện các cuộc kiểm toán chuyên đề và kiểm toán hoạt động để có thêm thông tin sát thực cho việc giám sát NSNN của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

(3) Hoàn chỉnh hệ thống các chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy trình và phương pháp kiểm toán phù hợp với Luật Kiểm toán nhà nước, pháp luật hiện hành và trên cơ sở tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế nhằm tiêu chuẩn hoá và chuyên nghiệp hoá hoạt động kiểm toán nhà nước; xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin trợ giúp hoạt động kiểm toán. Đặc biệt phải tập trung nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống báo cáo kiểm toán (báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán; báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước; báo cáo kiểm toán năm; báo cáo kiểm toán đột xuất), mẫu biểu báo cáo kiểm toán theo hướng đơn giản, dễ hiểu, phục vụ yêu cầu quản lý của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương; và thông tin cần thiết phục vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong xem xét, đánh giá tình hình và xác định nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quyết định dự toán, quyết toán NSNN, các chính sách và những vấn đề quan trọng khác.

(4) Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan KTNN với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, nhất là Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách; với Hội đồng nhân dân các cấp; thiết lập kênh thông tin, mạng thông tin với Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ và các cấp, ngành, địa phương nhằm kịp thời nắm bắt thông tin, yêu cầu kiểm toán. Xây dựng cơ chế phối hợp với Ủy ban Kinh tế và Ngân sách, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội, nhất là thực hiện cỏc hỡnh thức tham gia của KTNN trong quá trình giám sát NSNN của Quốc hội.

(5) Để giúp Quốc hội trong việc xem xét, quyết định dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách trung ương hàng năm, quyết định các dự án và công trình quan trọng quốc gia, KTNN cần được tham dự các phiên họp thảo luận của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội, các Ủy ban khác của Quốc hội về các vấn đề nêu trên, cũng như tiếp cận các thông tin liên quan đến quá trình lập dự toán, như: các chính sách tài chính vĩ mô; các dự báo về chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng, sự phát triển của các ngành, tiểu ngành, quy mô dân số theo ngành, vùng); số liệu dự báo về tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế- xã hội và ngân sách của năm hiện tại. Các thông tin về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội mang tính dài hạn cũng cần được cập nhật và cung cấp kịp thời. Đó là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch chi tiêu trung và dài hạn gắn với chi tiêu hàng năm.

(6) Tăng thêm quỹ thời gian cần thiết cho kiểm toán quyết toán ngân sách địa phương. Thời gian lập, chỉnh lý và gửi báo cáo quyết toán ngân sách của các địa phương, bộ, ngành theo quy định của Luật NSNN quá dài (ngày 01/10 năm sau), nên việc kiểm toán để phục vụ Hội đồng nhân dân các cấp phê chuẩn quyết toán ngân sách gặp nhiều khó khăn do thời gian kiểm toán ngắn; nhiều cuộc kiểm toán không thể thực hiện kiểm toán trước khi Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Do vậy, cần cú quy định cụ thể và hợp lý về thời hạn lập và gửi báo cáo quyết toán ngân sách địa phương các cấp cho cơ quan KTNN (hiện tại Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn chỉ quy định thời gian phê chuẩn quyết toán mà chưa quy định thời gian lập và gửi quyết toán cho KTNN); rút ngắn thời gian lập, chỉnh lý và gửi báo cáo quyết toán NSNN hàng năm của các địa ph­ương, bộ, ngành; dành nhiều thời gian hơn cho công tác thẩm tra, kiểm toán.

(7) Năng lực kiểm toán của KTNN nhìn chung còn rất hạn chế; tổ chức bộ máy chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, đặc biệt là còn rất thiếu các KTNN khu vực với nhiệm vụ chính là kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách địa phương (đến nay mới chỉ có 5 KTNN khu vực). Điều này đã hạn chế nhiều đến khả năng kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách địa phương, đồng thời cũng gây khó khăn cho công tác phân cấp, phân công nhiệm vụ kiểm toán giữa các KTNN khu vực với nhau cũng như giữa các KTNN khu vực với các KTNN chuyên ngành ở trung ương. Để có thể kiểm toán được báo cáo quyết toán ngân sách địa phương trước khi Hội đồng nhân dân chuẩn quyết toán NSNN theo quy định của Luật NSNN, KTNN cần được bổ sung thích đáng biên chế và thành lập đủ KTNN khu vực, mỗi KTNN khu vực đảm nhiệm kiểm toán 5- 6 tỉnh trên địa bàn. Đồng thời, cần phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho kiểm toán viên, nhất là kiến thức về quản lý nhà nước và những vấn đề kinh tế- xã hội.

(8) Để nâng cao năng lực thì một vấn đề quan trọng đối với KTNN là đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho kiểm toán viên nhà nước nhất là nâng cao sự hiểu biết về hoạt động kinh tế vĩ mô qua đó có thể đánh giá, phần tích được chính xác những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế. Đây là vấn đề càng phải được quan tâm khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Đây cũng là một thách thức đối với KTNN khi mà yêu cầu về các thông tin tin cậy, chính xác và những đòi hỏi về chất lượng kiểm toán ngày càng nâng cao. Hiện nay, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của kiểm toán viên tuy đã có bước phát triển khá nhanh nhưng nhìn chung vẫn còn bất cập so với yêu cầu phát triển, nhất là khả năng phân tích, đánh giá vĩ mô; kiến thức về quản lý hành chính, kinh tế vĩ mô nhìn chung còn hạn chế. Do vậy ngoài sự nỗ lực, cố gắng của KTNN thì việc trợ giúp của các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội là hết sức cần thiết để có thể nâng cao được năng lực cho hoạt động KTNN, đáp ứng yêu cầu giám sát của Quốc hội, phục vụ hoạt động quản lý điều hành của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ.

Với những điều kiện pháp lý cần thiết, cùng với việc hoàn thiện bộ máy tổ chức và đổi mới các hoạt động của mình, KTNN sẽ trở thành công cụ hữu hiệu trong việc cung cấp thông tin tin cậy và khách quan phục vụ hoạt động quản lý kinh tế - xã hội và NSNN, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, tăng cường tính minh bạch tài chính, làm lành mạnh nền tài chính quốc gia./.

Xem thêm »