Giải pháp nào chống gian lận thuế qua trị giá tính thuế hàng nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay?

09/03/2009
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Việc áp dụng Hiệp định trị giá GATT /WTO đã tạo bước ngoặt cơ bản cho hệ thống xác định trị giá tính thuế hiện hành ở Việt Nam, một mặt vừa đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế và thực hiện cam kết quốc tế, mặt khác tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thương mại. Tuy nhiên, trong thời gian qua có khá nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách này để gian lận thuế qua trị giá tính thuế.

1. Thực trạng gian lận thuế qua trị giá tính thuế khi Việt Nam áp dụng Hiệp định trị giá GAtT /WTO.

Trên cơ sở các qui định của Hiệp định trị giá GATT /WTO, Việt Nam đã xây dựng hệ thống văn bản pháp qui xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch bằng Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06 tháng 06 năm 2002 và Thông tư số 118/2003/TT-BTC ngày 8 tháng 12 năm 2003. Sau hai năm triển khai áp dụng các văn bản pháp qui đó đã bộ lộ những hạn chế nhất định, để phù hợp với tình hình và điều kiện phát triển của các quan hệ kinh tế cũng như phù hợp với Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nghị định số 60 đã được thay thế bởi Nghị định số 155/2005/NĐ-CP, ngày 15 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ và được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 113/ 2005/TT-BTC ngày 15 tháng 12 năm 2005 của Bộ Tài chính (Tại phụ lục số 01). Mặc dù đã đáp ứng cơ bản các nội dung yêu cầu của Hiệp định trị giá GATT /WTO, song có một số điều khoản chưa thực sự phù hợp với các cam kết của WTO, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, do vậy Nghị định số 155 đã được thay thế bởi Nghị định số 40/2007/NĐ-CP, ngày 13 tháng 06 năm 2007. Việc áp dụng Hiệp định trị giá GATT /WTO đã tạo bước ngoặt cơ bản cho hệ thống xác định trị giá tính thuế hiện hành ở Việt Nam, một mặt vừa đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế và thực hiện cam kết quốc tế, mặt khác tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thương mại. Tuy nhiên, trong thời gian qua có khá nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách này để gian lận thuế qua trị giá tính thuế. Các hành vi gian lận thường được các doanh nghiệp thực hiện dưới các hình thức sau:

Thứ nhất: Khai báo thấp trị giá đối với những mặt chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, có thuế suất cao, những mặt hàng nhạy cảm hay biến động về giá.

Thứ hai: Dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan Hải quan (GTT-22) để khai báo trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị giá giao dịch thực tế, sau đó khai thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng loại, tương tự đã nhập khẩu trước đó.

Thứ ba: Khai thấp trị giá đối với lô hàng nhập “thử”, tức nhập để thăm dò thái độ của cơ quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng thời gian ngắn theo mức giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa kịp xác minh, xử lý, tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh.

Thứ tư: “Down” giá bằng thủ đoạn tháo rời hàng nguyên chiếc thành linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Lợi dụng chính sách thuế hiện hành thuế suất đối với linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu thấp hơn hàng nguyên chiếc nhập khẩu do vậy thủ đoạn này được thực hiện bằng cách lập nhiều công ty khác nhau hoặc móc nối giữa các công ty với nhau và mỗi công ty nhập khẩu một bộ phận cấu thành của hàng nguyên chiếc về các cửa khẩu khác nhau trong các thời điểm khác nhau để tránh sự kiểm soát của cơ quan hải quan.

Thứ năm, lợi dụng các qui định về chiết khấu, giảm giá hoặc không khai báo tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng … để làm giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.

Thứ sáu, khai tăng trị giá tính thuế so với trị giá thực tế của hàng hoá nhập khẩu để tăng vốn đầu tư và chuyển “lậu” lợi nhuận ra nước ngoài, hình thức này thường được thực hiện bởi các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá dưới hình thức tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài như các Công ty đa quốc gia, Công ty mẹ - con... Ngoài ra một số doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh nghiệp nhập khẩu là đầu mối cung cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước cũng dùng thủ đoạn này để rút tiền từ ngân sách Nhà nước hoặc trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Hàng nhập khẩu thường là những mặt hàng có thuế suất nhập khẩu thấp, hoặc được miễn thuế nhập khẩu như máy móc, thiết bị, hoặc nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu....

Thứ bảy, lợi dụng cơ chế tự kê khai, tự tính thuế trong quá trình thông quan, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện hành vi mô tả sai hàng hoá trên tờ khai Hải quan, đưa hàng hoá từ mã số có thuế suất cao về mã số có thuế suất thấp để gian lận trốn thuế. So với các hình thức gian lận trên thì hình thức này ít phổ biến hơn, chỉ tập trung ở một số mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao, tính chất lý hoá phức tạp khó nhận biết bằng mắt thường.

Ngoài ra, thực tế trong những năm gần đây khi Nhà nước áp dụng chính sách thuế suất nhập khẩu linh kiện ô tô thấp thì việc lợi dụng chính sách này để chuyển giá đã diễn ra khá phổ biến, như khai tăng giá trị của linh kiện phụ tùng đầu vào bằng hoặc cao hơn giá trị của sản phẩm hoàn chỉnh nhập khẩu kinh doanh hoặc nhập khẩu bộ linh kiện không đồng bộ, thiếu một vài chi tiết, gây khó khăn cho cơ quan hải quan trong việc xác định trị giá tính thuế hoặc lợi dụng quy định về hàng khuyến mại, hàng bảo hành để gian lận thuế.

Theo báo cáo tổng kết từ Hải quan các địa phương trong cả nước và nhận định của Cục điều tra chống buôn lậu - Tổng Cục Hải quan, tình hình lợi dụng chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu để buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại đã trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều so với trước. Các vụ buôn lậu lớn đang có xu hướng chuyển dần sang việc lợi dụng chính sách một cách tinh vi thay vì trắng trợn lộ liễu vận chuyển trái phép hàng qua biên giới như trước đây, tình hình lợi dụng việc áp dụng trị giá tính thuế (theo Điều 7 - Hiệp định GATT /WTO) để trốn thuế ngày càng trở nên đáng lo ngại. Các mặt hàng bị vi phạm chủ yếu là những mặt hàng có thuế suất cao như ôtô, xe máy, linh kiện, phụ tùng, máy móc, hàng điện tử, hàng tiêu dùng... Chẳng hạn, tại Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn, kể từ khi triển khai thực hiện trị giá GATT đến nay qua thống kê cho thấy phần lớn các doanh nghiệp đều có giá khai báo không đúng so với giá thực tế mua bán. Tính đến hết ngày 30 tháng 10 năm 2006 toàn Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn có 15.342 tờ khai hàng nhập khẩu thuộc diện nghi ngờ về trị giá khai báo trên tổng số gần 25.000 tờ khai nhập khẩu áp dụng trị giá GATT (chiếm trên 60). Trong đó kiểm tra và đã phát hiện số tờ khai sử dụng thủ đoạn gian lận khai tăng trị giá là 35 tờ khai, mặt hàng vi phạm chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghiệp, vật tư xây dựng công trình, nguyên liệu sản xuất, thiết bị y tế, giáo dục; Số tờ khai sử dụng thủ đoạn gian lận khai giảm trị giá là 1864 tờ khai, mặt hàng vi phạm chủ yếu ôtô, xe máy, hàng tiêu dùng, hàng gia dụng, điện máy, điện tử, thiết bị trang trí nội thất, bộ linh kiện xe gắn máy; Số tờ khai sử dụng thủ đoạn gian lận mô tả sai hàng hoá nhập khẩu là 24 tờ khai, mặt hàng vi phạm chủ yếu là điều hoà nhiệt độ, máy giặt, tủ lạnh, hoá chất, thiết bị chính xác.

Cũng theo số liệu thống kê năm 2006 ở một số Cục hải quan lớn như Cục hải quan TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Lạng Sơn, Nghệ An, Vũng Tàu, tổng số thuế điều chỉnh sau khi tham vấn giá là: 118.243.190.902, 00 đồng. Đặc biệt trong đó, Cục hải quan TP Hồ Chí Minh có số thuế điều chỉnh là: 58.509.268.870, 00 đồng; Cục hải quan TP Hải Phòng: 26.421.637.013, 00 đồng.

2. Những bất cập, khó khăn và hạn chế của công tác chống gian lận thuế qua trị giá tính thuế ở Việt Nam hiện nay

Thực tế cho thấy rằng, hầu hết các mức giá được chấp nhận trong các tờ khai Hải quan hiện nay chưa phản ánh trung thực trị giá giao dịch của các lô hàng nhập khẩu, song công tác chống gian lận qua trị giá tính thuế ở nước ta hiện nay còn có nhiều bất cập, khó khăn. Cụ thể:

Thứ nhất, các điều kiện kinh tế, xã hội ở Việt Nam hiện nay cũng như ý thức của công dân về nghĩa vụ thuế chưa thực sự đảm bảo đủ “độ chín” để áp dụng xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch.

Thứ hai, cơ quan Hải quan không có đủ cơ sơ để bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp do thiếu thông tin hoặc thông tin thiếu tính thuyết phục không đủ độ tin cậy.

Thứ ba: Trình độ, năng lực của một số cán bộ công chức Hải quan về kiểm tra trị giá khai báo tính thuế chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, do thiếu chuyên môn sâu về trị giá tính thuế, về các thông lệ, hình thức thanh toán quốc tế…

Thứ tư: Các văn bản hướng dẫn thực hiện việc xác định trị giá tính thuế chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị cho công tác quản lý trị giá tính thuế còn nghèo nàn, việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý trị giá tính thuế chưa thực sự có hiệu quả. ở nhiều Chi cục, cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật gần như chưa có hoặc nếu có thì cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Thứ năm: Sự phối hợp trao đổi thông tin trong nội bộ ngành Hải quan chưa đáp ứng tính mau lẹ, thông suốt, mối quan hệ giữa Hải quan Việt Nam với Hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới chưa được thiết lập một cách có hiệu quả. Do vậy hạn chế lớn trong việc trao đổi thông tin về trị giá hàng hoá, về xuất xứ hàng trong khi tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi trên nhiều bình diện và sắc thái mới.

Thứ sáu: Công tác tham vấn trị giá phần lớn mang tính chất chiếu lệ, hình thức, hiệu quả tham vấn thấp. Mặc dù công tác tham vấn giá được coi là một biện pháp hữu hiệu trong việc ngăn chặn tình trạng gian lận giá nhưng việc tổ chức tham vấn giá còn sơ sài, chủ yếu dựa trên mẫu biên bản do Tổng cục hải quan hướng dẫn, chưa làm nổi bật được những nghi ngờ của cơ quan hải quan đối với trị giá khai báo của doanh nghiệp, căn cứ để bác bỏ trị giá khai báo còn lệ thuộc quá nhiều vào những sai lệch trên hồ sơ hoặc sự chấp thuận của doanh nghiệp như có mối quan hệ đặc biệt nhưng không khai báo hoặc các chứng từ trong hồ sơ không khớp nhau chưa chỉ ra được những mâu thuẫn trong trị giá khai báo, chưa sử dụng đầy đủ quyền bác bỏ trị giá khai báo của cơ quan hải quan khi đã có đủ căn cứ nhưng doanh nghiệp không chấp thuận. Do vậy việc bác bỏ trị giá sau tham vấn chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu chấp nhận trị giá đã khai báo (chiếm từ 60 đến 70 trên tổng số các tờ khai tham vấn). Đơn cử, trong năm 2006 ở TP Hồ Chí Minh tổ chức tham vấn 5.537 tờ khai, kết quả bác bỏ 1.722 tờ khai, chiếm tỷ lệ 31,10; TP Hải Phòng bác bỏ 373TK/3086TK, chiếm tỷ lệ 12,09; TP Hà Nội bác bỏ 50TK/370TK, chiếm tỷ lệ 13,51. Công tác truy thu thuế sau tham vấn chưa có hiệu quả. Ví dụ, trong tổng số thuế điều chỉnh sau tham vấn ở Cục hải quan Lạng Sơn là 9.528.227.000.00 đồng nhưng số thuế thực nộp vào Ngân sách Nhà nước là 1.573.586.000.00 đồng (chiếm 16,51); hoặc ở Cục hải quan Hà Nội số thuế thực nộp: 501.768.319.00/1.283.641.615.00 đồng (chiếm 39.09). Đây là con số quá ít so với tổng số thuế phải truy thu sau tham vấn giá.

Thứ bảy: Việc cập nhập dữ liệu giá thiếu tính thường xuyên, chưa trở thành một tác nghiệp bắt buộc trong qui trình quản lý dữ liệu giá. Một yêu cầu đặt ra trong qui trình quản lý danh mục dữ liệu giá là phải thường xuyên cập nhật dữ liệu vào hệ thống giá GTT -22 của Tổng Cục Hải quan để có cơ sở cho việc tham khảo, đối chiếu giá. Song trong thực tế công tác này ít được chú ý, dẫn đến tình trạng nghèo thông tin, thông tin lạc hậu so với những gì đang xẩy ra sôi động trên thương trường của hệ thống giá GTT -22. Chính vì vậy đã gây cản trở không nhỏ tới hiệu quả công tác xác định cũng như công tác tham vấn trị giá tính thuế

Thứ tám: Nguồn thông tin phục vụ công tác kiểm tra giá tính thuế còn hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu đặt ra. Hiện nay việc cập nhật dữ liệu ở các Chi cục rất lớn nhưng trang thiết bị chưa tương xứng với yêu cầu khai thác và quản lý khi tra cứu dữ liệu GTT -22 trên máy tính. Giữa GTT -22 và chương trình quản lý số liệu xuất nhập khẩu đa chức năng chưa có liên kết do vậy hiệu quả công tác xác định và kiểm tra giá chưa cao. Chẳng hạn, việc xác định tên hàng hoá tại chương chình đa chức năng chỉ cho phép mô tả tối đa 80 kí tự, do vậy không nhận được đầy đủ thông tin nếu tên hàng hoá quá dài. Điều này cũng hạn chế yêu cầu cần mô tả chi tiết tên hàng hoá để cập nhật vào chương trình GTT -22, làm ảnh hưởng đến việc tra cứu hàng hoá khi xác định trị giá. Việc nhập thông tin từ đĩa mềm do doanh nghiệp cung cấp vào chương trình GTT -22 chưa có hệ thống cảnh báo đồng bộ hoá dữ liệu giữa chương trình đa chức năng với chương trình GTT -22.

Thứ chín: Công tác kiểm tra sau thông quan chưa thực sự đem lại hiệu quả.

Một trong những yếu tố quan trọng củng cố và nâng cao hiệu quả của công tác chống gian lận thuế qua trị giá tính thuế là công tác kiểm tra sau thông quan. Mặc dù công tác này đã được Cục Kiểm tra sau thông quan coi trọng và tích cực triển khai thực hiện nhưng thời gian qua vẫn chưa phát huy được những gì mà chúng ta đang kỳ vọng và mong đợi ở nó. Công tác phúc tập hồ sơ tại các Chi cục chưa được coi trọng đúng mức, việc phối hợp cung cấp thông tin liên quan tới dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp còn hạn chế, vì vậy tình trạng gian lận thuế qua trị giá tính thuế vẫn chưa được đẩy lùi.

3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chống gian lận thuế qua trị giá tính thuế hàng nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay

3.1 Tiếp tục hoàn thiện các qui định của pháp luật về trị giá hải quan về thuế chống bán phá giá, chống trợ giá trên cơ sở xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả.

Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO việc tiếp tục chỉnh lý, bổ sung để chuyển thể nguyên bản và đầy đủ nhất nội dung của Hiệp định trị giá GATT /WTO vào các văn bản pháp qui Việt Nam là điều không thể trì hoãn. Trong đó đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện các qui định về quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan về trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan hải quan, như nghĩa vụ tham gia tham vấn giá, nghĩa vụ phải nộp thuế theo số thuế cơ quan hải quan xác định lại, nghĩa vụ nộp khoản bảo đảm theo yêu cầu của cơ quan hải quan, nghĩa vụ nộp bảo lãnh để thông quan hàng hoá trong trường hợp cơ quan hải quan nghi ngờ trị giá khai báo, nghĩa vụ nộp thuế truy thu kể cả trong trường hợp trị giá tính thuế đã được cơ quan hải quan chấp nhận trước đó…của người khai hải quan; Trách nhiệm tổ chức tham vấn giá, trách nhiệm phải thông báo cho người nhập khẩu biết các tài liệu, nguồn thông tin được sử dụng để xác định trị giá tính thuế, trách nhiệm yêu cầu người khai hải quan nộp khoản bảo đảm đủ để trả tiền thuế cho lô hàng trong trường hợp cơ quan hải quan có căn cứ nghi ngờ trị giá khai báo…của cơ quan hải quan.

Cùng với việc hoàn thiện các qui định về trị giá hải quan là xây dựng và từng bước hoàn thiện các quy định của pháp luật về thuế chống bán phá giá, chống trợ giá cũng như cơ chế bảo đảm thực hiện là điều hết sức cần thiết, bởi ngay cả trong trường hợp hàng nhập khẩu được bán phá giá, trợ giá thì khi xem xét trị giá tính thuế vẫn theo trị giá giao dịch. Do vậy để bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh không lành mạnh và đảm bảo cho các nhà nhập khẩu được bình đẳng khi cùng áp dụng các nguyên tắc xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT /WTO đòi hỏi phải triển khai đồng bộ các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ giá từ các nước xuất khẩu. Đồng thời, phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá, trợ giá và phải coi đây là công cụ pháp lý bắt buộc để đối phó với hàng nhập khẩu khi được khai báo với trị giá quá thấp.

3.2 Hoàn thiện cơ chế tự khai, tự xác định trị giá tính thuế và quy trình quản lý giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu

Cơ chế xác định giá tính thuế hàng nhập khẩu hiện hành ở Việt nam đã hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc và phương pháp xác định trị giá tính thuế theo GATT /WTO. Cùng với cơ chế đó là cơ chế tự kê khai, tự xác định trị giá tính thuế nên bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định như: tạo thông thoáng cho giao lưu thương mại, phù hợp với thông lệ quốc tế, thay đổi phương pháp quản lý của công chức Hải quan từ chỗ bị động mang tính áp đặt sang chủ động kiểm tra, kiểm soát việc tự khai báo của doanh nghiệp, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, nâng cao ý thức tự giác khai báo của các doanh nghiệp - đây là phương pháp quản lý tiên tiến hiện đại. Tuy nhiên, để góp phần ngăn chặn các hành vi gian lận thuế qua việc tự xác định trị giá tính thuế cần tiếp tục hoàn thiện và thiết lập hành lang pháp lý cho một số hoạt động hỗ trợ cho công tác kiểm tra, kiểm soát và xác định trị giá khai báo như: trưng cầu thẩm định giá tại các trung tâm thẩm định giá, sử dụng thông tin giá do cơ quan tham tán thương mại, cơ quan thường vụ thuộc sứ quán Việt Nam tại các nước cung cấp về giá FOB nước bán; Sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác kiểm tra sau thông quan, công tác kiểm toán Hải quan phù hợp với các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán quốc gia và quốc tế.

Theo qui trình quản lý giá tính thuế hàng nhập khẩu hiện nay, việc xây dựng và quản lý trị giá tính thuế chủ yếu diễn ra ở cấp Chi cục còn cấp Cục và Tổng cục chỉ đóng vai trò cung cấp thông tin là chính. vì vậy việc hoàn thiện quy trình quản lý trị giá tính thuế phải theo hướng: quy định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cá nhân trong từng khâu nghiệp vụ. Đặc biệt quy trình cần hướng dẫn chi tiết thẩm quyền, trách nhiệm và căn cứ để cơ quan Hải quan bác bỏ trị giá khai báo không phù hợp với trị giá giao dịch thực tế, vì đây là khâu nghiệp vụ quan trọng nhằm đảm bảo công tác quản lý trị giá tính thuế hiệu quả đồng thời góp phần hạn chế đến mức tối đa sự tranh cãi giữa các doanh nghiệp và cơ quan Hải quan trong các trường hợp áp giá tính thuế hàng nhập khẩu.

3.3 Triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản về phối kết hợp giữa cơ quan Hải quan với các cơ quan chức năng

Với việc lợi dụng cơ chế tự kê khai, tự tính thuế nhiều doanh nghiệp đã tiến hành khai báo trị giá hàng hoá rất thấp so với thực tế hoặc mô tả sai hàng hoá nhằm mục đích trốn và tránh các khoản thuế phải nộp. Để khắc phục được tình trạng này cần phải có sự tham gia hỗ trợ đắc lực của hệ thống các cơ quan thuế, hệ thống Ngân hàng, hệ thống cơ quan Công an…Bởi sự hợp tác của các cơ quan này một mặt góp phần ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận, trốn thuế, một mặt đảm bảo tính đồng bộ trong việc ban hành cũng như triển khai thực hiện các văn bản pháp luật. Vấn đề là ở chỗ không chỉ ban hành để có các văn bản pháp luật mà điều quan trọng và đáng quan tâm hơn cả là hiệu quả của việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đó? Bởi thực tế hiện nay đã có khá nhiều qui định pháp lý về vấn đề này, Chẳng hạn, khoản 4, điều 32, Luật Hải quan năm 2001; Điều 19 Nghị định số 155/2005/ NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính Phủ; Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLB-BTC-NHNN ngày 04/02/2006… Để đảm bảo tính hiệu quả khi triển khai thực hiện các văn bản này cần quan tâm các nội dung sau:

- Đối với Ngân hàng: phối kết hợp trong việc cung cấp các tài liệu liên quan đến việc thanh toán lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ việc kiểm tra xác định trị giá tính thuế

- Đối với cơ quan thuế nội địa: phối kết hợp trong việc kiểm tra tính chính xác của các nội dung trên tờ khai hải quan với các sổ sách, chứng từ kế toán của doanh nghiệp mà cơ quan thuế thu thập được. Tích cực đẩy mạnh công tác trao đổi thông tin với cơ quan thuế để kiểm tra việc bán hàng sau thông quan của doanh nghiệp.

- Đối với Bộ Công an: Phối kết hợp trong việc thực hiện truy thu thuế sau tham vấn giá, sau kiểm tra tính thuế, thu hồi nợ đọng thuế cũng như việc quản lý các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nhập khẩu trên địa bàn.

3.4 Củng cố hệ thống thông tin dữ liệu giá và thường xuyên làm “giàu” dữ liệu về giá.

Từ khi bảng giá tối thiểu của Bộ Tài Chính được bãi bỏ, thì cơ sở để các công chức làm công tác giá so sánh đối chiếu với trị giá khai báo của doanh nghiệp chính là các thông tin về giá trên thị trường, các mức giá chào bán trên Internet và đặc biệt là sử dụng đến hệ thống dữ liệu giá (GTT-22) của Tổng cục Hải quan. Các cơ sở dữ liệu này giúp công chức Hải quan biết được trị giá của mặt hàng nhập khẩu sẽ nằm trong khoảng nào, cho biết giá trị thực của một loại hàng hoá, do cùng một doanh nghiệp nhập khẩu được khai báo như thế nào, từ đó cho phép cơ quan Hải quan có được những nhận định về tính trung thực của khai báo để cơ quan hải quan xác định đúng trị giá tính thuế cho lô hàng. Việc làm “giàu” dữ liệu giá trước hết được thực hiện bằng cách cập nhật thường xuyên các thông tin dữ liệu vào hệ thống GTT -22, cần chú ý nhập những dữ liệu cần thiết như tên, địa chỉ đối tác nước ngoài, nhà sản xuất, thương hiệu để phục vụ cho việc xác định hàng hoá nhập khẩu giống hệt, tương tự. Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác phối kết hợp với Hải quan khu vực và thế giới trong việc trao đổi thông tin về trị giá. Với việc hợp tác này Hải quan các bên có thể giúp nhau xác định tương đối chính xác mức giá của hàng hoá nhập khẩu cần xác định trị giá, từ đó sẽ có cơ sở để bác bỏ trị giá khai báo của các doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp khai báo giá quá thấp so với thị trường quốc tế. Đồng thời xây dựng trung tâm thu thập thông tin tình báo của Hải quan là các cơ quan tham tán, đại sứ quán ở ngoài nước nhằm cung cấp những thông tin liên quan đến các lô hàng có nhiều rủi ro.

3.5 Đẩy mạnh công tác kiểm tra trị giá tính thuế và nâng cao hiệu quả công tác tham vấn giá.

Công tác kiểm tra trị giá tính thuế phải được đẩy mạnh ngay tại thời điểm làm thủ tục thông quan và đặc biệt sau khi thông quan hàng hoá. Bởi tăng cường kiểm tra trị giá vừa đảm bảo được tính chính xác trung thực của khai báo vừa là công cụ ngăn ngừa gian lận thuế qua giá. Bằng các nghiệp vụ cụ thể của công tác kiểm tra sau thông quan với thời hạn kiểm tra là 5 năm kể từ ngày thông quan hàng hoá, điều đó cho phép cơ quan Hải quan có thể thu thập đầy đủ số liệu, chứng cứ để đấu tranh chống gian lận thuế qua trị giá.

Công tác kiểm tra trị giá tính thuế thực sự có hiệu quả sẽ không tách rời hiệu quả của công tác tham vấn trị giá tính thuế, với tư tưởng chỉ đạo:

- Tuyệt đối không tham vấn chiếu lệ, vừa không có hiệu quả vừa ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc bỏ qua không tham vấn đối với những lô hàng có dấu hiệu nghi ngờ.

- Nghiêm cấm công chức tham vấn giá có hành vi sách nhiễu tiêu cực, lợi dụng ảnh hưởng của nhiệm vụ được giao để gây khó khăn cho doanh nghiệp như: Cố tình tham vấn, dự kiến xác định mức giá quá cao sau đó “mặc cả” với doanh nghiệp; Hoặc cố tình từ chối kết quả chứng minh tính trung thực hợp lý của mức giá doanh nghiệp đã khai báo; Hoặc có hành vi thông đồng với doanh nghiệp chấp nhận kết quả chứng minh của doanh nghiệp khi thiếu cơ sở, không đủ cơ sở thuyết phục gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.

3.6 Tăng cường phối kết hợp giữa các bộ phận nghiệp vụ: Giá - Kiểm tra sau thông quan - Điều tra chống buôn lậu.

Hiện nay các văn bản hướng dẫn quy trình quản lý giá đã đề cập đến công tác phối hợp giữa bộ phận làm công tác giá và bộ phận kiểm tra sau thông quan, đó là khi có những lô hàng nghi vấn mà bộ phận giá tham vấn chưa đủ căn cứ để bác bỏ giá khai báo của doanh nghiệp thì chuyển cho bộ phận kiểm tra sau thông quan xác minh làm rõ, nhưng bộ phận kiểm tra sau thông quan cũng chỉ kiểm tra hồ sơ và thêm động thái xác minh chứng từ thanh toán quan ngân hàng và rồi hầu như mọi việc lại có vẻ an bài. Lí do của bộ phận kiểm tra sau thông quan đưa ra cũng giống bộ phận làm công tác giá đó là thiếu thông tin. Trong khi đó bộ phận điều tra chống buôn lậu của Cục Hải quan lại có khá nhiều thông tin liên quan đến thủ đoạn buôn lậu, gian lận thương mại của doanh nghiệp thì lại chưa chia sẻ kịp thời cho bộ phận giá và kiểm tra sau thông quan. Để công tác quản lý giá đạt được kết quả cao hơn, phải xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa ba bộ phận: Giá - Kiểm tra sau thông quan - Điều tra chống buôn lậu trên các mặt: thông tin; tác nghiệp; và biện pháp xử lý... Cụ thể bộ phận giá phải đưa ra được những thông tin xác thực nhất về đối tượng và hành vi gian lận thuế qua trị giá bằng việc tích cực tìm kiếm thông tin, chủ động tham khảo thông tin từ bộ phận điều tra chống buôn lậu để thực hiện có hiệu quả việc bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp khi có nghi ngờ. Đối với bộ phận kiểm tra sau thông quan, chủ động các kế hoạch kiểm tra doanh nghiệp khi có thông tin từ bộ phận giá chuyển sang, trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy dấu hiệu phức tạp cần điều tra kỹ thì phối hợp với bộ phận điều tra chống buôn lậu để đảm bảo định hướng “tuân thủ pháp luật tự nguyện” của doanh nghiệp. Đồng thời những kết quả phân tích, đánh giá từ hệ thống kiểm tra sau thông quan sẽ định hướng cho hoạt động của lực lượng kiểm soát.

3.7 Xây dựng và kiện toàn lại hệ thống tổ chức cán bộ thực hiện quản lý, kiểm tra giá tính thuế

Để thực hiện tốt yêu cầu hiện đại hoá Hải quan, đòi hỏi phải có một lực lượng cán bộ công chức tinh thông nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Thực tế cho thấy, hiện nay các lớp đào tạo, tập huấn về xác định trị giá tính thuế hầu hết chưa chú ý đến đào tạo kỹ năng nên trình độ của nhiều công chức vẫn chưa đáp ứng được thực tiễn làm công tác giá. Đặc biệt đối với các cán bộ làm công tác giá ở cấp Chi cục cần được đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu về trị giá hải quan bởi họ là những người trực tiếp tư vấn và kiểm tra xác định trị giá tính thuế cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Bên cạnh đó cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ và khai thác có hiệu quả sự trợ giúp của Tổ chức hải quan thế giới (WCO), Tổ chức Hải quan ASEAN, Hải quan các nước như Nhật Bản, Malaysia trong đào tạo bồi dưỡng kiến thức về trị giá tính thuế và quản lí rủi ro trong kiểm soát xác định trị giá. Đồng thời, kiện toàn lại hệ thống tổ chức cán bộ làm công tác giá theo hướng:

- Tại cấp Chi cục Hải quan cửa khẩu: phải có cán bộ giá chuyên trách, không kiêm nhiệm, tuỳ theo đặc điểm, tính chất, mức độ của từng Chi cục để bố trí số lượng công chức làm công tác giá cho phù hợp; Tại cấp Cục: Thành lập và hoàn thiện được mô hình tổ chức phòng giá, phải tăng cường các cán bộ làm công tác giá chuyên sâu, đảm bảo tuân thủ nguyên tắc không để cán bộ kiêm nhiệm làm công tác giá.

- Việc bố trí cán bộ phải dựa trên kiến thức chuyên môn được đào tạo, ưu tiên các cán bộ có kinh nghiệm thực tế về công tác giá, cán bộ có kiến thức về thương phẩm học, không bố trí các cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn vào bộ phận giá; Việc luân chuyển phải tính đến yếu tố chuyên sâu, chỉ luân chuyển cán bộ trong bộ phận giá với nhau, không điều chuyển làm công tác khác.

- Tiếp tục thực hiện đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác giá với các chuyên đề thiết thực, gắn liền với thực tiễn, tập trung đào tạo kỹ năng về tham vấn giá, kỹ năng bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp.

3.8 Đẩy mạnh xây dựng hệ thống quản lý rủi ro trên cơ sở không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin doanh nghiệp.

Việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phải dựa trên việc tổ chức đánh giá, phân tích những nhóm hàng mặt hàng đặc thù có nguy cơ gian lận trị giá cao theo các tiêu chí: thuế suất cao, trị giá lớn, mặt hàng nhạy cảm như ôtô, xe máy, hàng điện tử, điện lạnh, cơ khí, rượu, mỹ phẩm…; kết hợp với việc đánh giá, phân tích những nhóm hàng mặt hàng nhập khẩu có xuất xứ từ những nước, khối nước có nguy cơ gian lận thương mại cao như hàng nhập khẩu có xuất xứ từ Trung quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thái lan, Singapore…để lựa chọn mặt hàng, nhóm hàng quản lý rủi ro, hạn chế gian lận thuế qua trị giá tính thuế. Tất nhiên hệ thống quản lý rủi ro chỉ thực sự phát huy tối đa hiệu quả trên cơ sở có một hệ thống thông tin doanh nghiệp hoàn hảo.

3.9 Xây dựng chiến lược “Tuân thủ pháp luật tự nguyện”

Nội dung trọng tâm của chiến lược “Tuân thủ pháp luật tự nguyện” đó là đảm bảo sự chấp hành pháp luật tự nguyện của doanh nghiệpN, coi trọng việc giáo dục ý thức mới của công dân về nghĩa vụ thuế trên cơ sở lấy yếu tố tự nguyện làm điểm mấu chốt thay vì sự điều chỉnh các hành vi vi phạm; Nâng cao chất lượng dịch vụ công của cơ quan hải quan; Khuyến khích doanh nghiệp tham gia hỗ trợ một số công việc của cơ quan hải quan nhất là trong việc cung cấp thông tin, hợp tác với cơ quan hải quan để thực hiện giám sát lẫn nhau trong quá trình thực thi pháp luật./.

Xem thêm »