Kiểm toán công tác quản lý rừng và đất rừng - một số vấn đề đặt ra

09/09/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Tài nguyên rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với khí quyển, đất đai, mùa màng, cung cấp các nguồn gen động thực vật quý hiếm cùng nhiều lợi ích khác. Do vậy, cần phải quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Mặc dù công tác quản lý rừng, đất rừng ngày càng có sự chuyển biến tích cực song vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Thực hiện chức năng kiểm toán môi trường, Kiểm toán nhà nước đã xác định một trong những trọng tâm kiểm toán năm 2020 là “Đánh giá việc giao đất và quản lý đất rừng tại một số địa phương”. Bài viết do đó đánh giá sơ bộ công tác quản lý rừng và đất rừng cũng như công tác kiểm toán hoạt động này của Kiểm toán nhà nước, đặc biệt là tại các Kiểm toán nhà nước khu vực.

Từ khóa: công tác quản lý rừng và đất rừng, Kiểm toán nhà nước khu vực.
Quản lý rừng, đất rừng và vai trò của Kiểm toán nhà nước\
Một đặc điểm quan trọng trong quản ly rừng ở Việt Nam đó là có một cơ quan cấp Bộ (cụ thể là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và các đơn vị hành chính địa phương cùng thực hiện quyền hạn pháp lý đối với rừng. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng các kế hoạch lâm nghiệp quốc gia nhằm hướng dẫn việc ra quyết định về sử dụng rừng. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng chịu trách nhiệm yêu cầu Thủ tướng Chính phủ thành lập mới các khu rừng đặc dụng hoặc rừng phòng hộ ở tầm quan trọng quốc gia.Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện cũng có thể thành lập các khu rừng không ở tầm quan trọng quốc gia và họ đóng vai trò đáng kể hơn trong việc phân bổ quyền sử dụng cho tất cả các loại rừng.
Luật Lâm nghiệp cho phép phân loại lại đất rừng từ loại này sang loại khác hoặc không phải là rừng. Luật Lâm nghiệp trao quyền chuyển loại rừng cho Thủ tướng Chính phủ theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với khu rừng do Thủ tướng Chính phủ thành lập và trao quyền cho Ủy ban nhân dân tỉnh đối với các khu rừng do Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập.

Luật này cũng cho phép Quốc hội, Thủ tướng và Ủy ban nhân dân tỉnh chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác theo từng trường hợp, tùy thuộc vào loại và quy mô rừng. Mặc dù luật quy định rằng việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên không nên xảy ra ngoại trừ “đối với các dự án quan trọng quốc gia, các dự án vì mục đích an ninh quốc gia hoặc các dự án cấp thiết khác được Chính phủ phê duyệt”, nhưng điều luật này không có nhiều hướng dẫn.
Về cơ bản, Ủy ban nhân dân tỉnh có thể quyết định giao quyền cho các tổ chức kinh tế hoặc tổ chức khác, trong khi Ủy ban nhân dân huyện và thị trấn chỉ có thể chỉ định quyền cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân tỉnh cùng được giao nhiệm vụ xây dựng các quy trình để định giá rừng hợp lý trước khi cho thuê.
Một trong số các tổ chức kinh tế có thể có được quyền sử dụng rừng là doanh nghiệp lâm nghiệp quốc doanh. Năm 1986, có tổng số 413 DNLNQD trên toàn quốc. Sau cuộc cải cách năm 2003, con số này đã giảm xuống còn 164 vào năm 2014.Các doanh nghiệp này đã kiểm soát tổng cộng 6,3 triệu ha đất lâm nghiệp vào năm 1986. Đến năm 2015, con số đó là khoảng 1,45 triệu ha. Các ban quản lý rừng hiện nay đã làm tốt hơn nhiều, kiểm soát khoảng 4,9 triệu ha.

Một số báo cáo đưa ra những số liệu không trùng khớp về số đất đã thực sự được giao cho cộng đồng quản lý. Theo một báo cáo của ủy ban thường trực năm 2014 đã xác định 26% đất rừng đã được giao cho các hộ gia đình và 2% cho cộng đồng quản lý. Tuy nhiên, Quyết định số 3158/QĐ- BNN-TCLN xác định khoảng 22% đất được giao cho từng hộ gia đình và 8% cho cộng đồng quản lý.

Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) với vai trò quan trọng của mình cần phải tham gia vào lĩnh vực này, đảm bảo các nguồn tài nguyên thiên nhiên được quản lý, khai thác và sử dụng một cách hiệu quả. Kiểm toán quản lý rừng và đất rừng là một phần của kiểm toán môi trường mà Kiểm toán môi trường hiện nay đã trở thành một hoạt động chính tại nhiều SAI.

Theo Hiến pháp Nhà nước Việt Nam năm 2013: “Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”, để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật Kiểm toán nhà nước 2015 đã quy định đầy đủ hơn về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước cho phù hợp với địa vị pháp lý đã được hiến định của Kiểm toán nhà nước. Theo Điều 4. Luật Kiểm toán nhà nước 2015 quy định: “Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán”. Khoản 11, Điều 3, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 qui định: “Tài sản công bao gồm: đất đai; tài nguyên nước…”

Theo Khoản 1, Điều 54, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật”. Từ những Hiến định của Hiến pháp cùng với quy định của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 như đã nêu trên cho thấy đất đai, tài nguyên rừng là một loại tài sản công, là nguồn tài nguyên đặc biệt của Quốc gia thuộc sở hữu của toàn dân. Do vậy việc thực hiện kiểm toán đối với việc quản lý và sử dụng đất đai thuộc chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước.
Như vậy kiểm toán việc quản lý rừng và đất rừng thuộc thẩm quyền của Kiểm toán nhà nước, thuộc chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước.
Theo Chuẩn mực kiểm toán số 100: Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Kiểm toán nhà nước được ban hành theo Quyết định số: 02 /2014/QĐ-KTNN ngày 14 tháng 7 năm 2014 của Tổng Kiểm toán nhà nước có nêu: “Đối tượng chịu trách nhiệm: Là các đơn vị được kiểm toán; các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến đơn vị được kiểm toán, chịu trách nhiệm quản lý đơn vị được kiểm toán hay chịu trách nhiệm thực thi các kiến nghị liên quan. Trách nhiệm của các đối tượng này được qui định trong Hiến pháp, Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản pháp luật khác”.

Như vậy, việc Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán công tác quản lý rừng, đất rừng là hoàn toàn có có sở pháp lý.

Thực trạng công tác kiểm toán quản lý rừng, đất rừng do Kiểm toán nhà nước khu vực thực hiện

Các mục tiêu kiểm toán đối với công tác quản lý rừng, đất rừng do Kiểm toán nhà nước khu vực thực hiện có thể khái quát như sau:

Thứ nhất, xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp lý của số liệu quản lý rừng, đất rừng cũng như tình hình tài chính phục vụ cho hoạt động quản lý rừng, đất rừng. Thứ hai, đánh giá việc tuân thủ pháp luật, các quy định của nhà nước trong: việc tổ chức, hoạt động của các đơn vị quản lý rừng; việc quản lý, sử dụng các nguồn lực công được giao cho các đơn vị; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Thứ ba, xác định các sai phạm để kiến nghị với các đơn vị được kiểm toán nhằm chấn chỉnh công tác quản lý tài chính - kế toán, hoạt động của đơn vị và kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý sai phạm; kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công được nhà nước giao cho các đơn vị quản lý rừng, đất rừng. Thứ tư, thông qua hoạt động kiểm toán, phát hiện kịp thời hành vi tham nhũng, lãng phí trong quá trình tổ chức hoạt động của các đơn vị (nếu có) và xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân để kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm các nguồn lực được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Thứ năm, cung cấp thông tin, số liệu tin cậy cho Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước và thực hiện chức năng giám sát quá trình quản lý, sử dụng tài chính công và tài sản công.

Nội dung kiểm toán các cuộc kiểm toán rừng và đất rừng được xác định như sau: Thứ nhất, kiểm toán Báo cáo tài chính của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục kiểm lâm, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng. Thứ hai, kiểm toán việc chấp hành pháp luật, chính sách, chế độ quản lý tài chính, kế toán của Nhà nước, quản lý thu - chi của các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục kiểm lâm, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng. Thứ ba, đánh giá việc quản lý rừng, đất rừng tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục kiểm lâm, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng và một số chủ rừng (thông thường là các Công ty lâm nghiệp). Thứ tư, đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền, tài sản nhà nước. Thứ năm, kiểm toán việc tuân thủ Luật phòng, chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; việc ban hành và thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ trong hoạt động của đơn vị.

Việc thực hiện kiểm toán công tác quản lý rừng và đất rừng do Kiểm toán nhà nước nói chung và Kiểm toán nhà nước khu vực nói riêng đã đạt được một số kết quả bước đầu, gồm:

- Đánh giá chính xác các nội dung quản lý rừng, đất rừng của các cấp chính quyền, chỉ ra các tồn tại trong cơ chế, trong cách quản lý rừng, đất rừng.
- Phát hiện các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, có hiện tượng diện tích đất theo Giấy Chứng nhận quyền sử dụng chênh lệch lớn so với thực tế. Khi giao đất, các địa phương không thực hiện đo đạc, cắm mốc giới cụ thể; tình trạng người dân tự chuyển nhượng giá trị tài sản trên đất, đất được giao khoán và mua bán hợp đồng giao khoán, chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật vẫn còn diễn biến phức tạp.

- Phát hiện một số chính quyền địa phương các cấp, cơ quan, đơn vị ở những địa bàn trọng điểm vi phạm về lĩnh vực lâm nghiệp chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm được giao, chưa quyết liệt trong công tác triển khai thực hiện chỉ đạo của cấp trên trong việc quản lý rừng, đất rừng để xảy ra tình trạng mất rừng, mất đất rừng. Đặc biệt một số địa phương còn xảy ra tình trạng phá rừng, làm suy thoái tài nguyên rừng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm toán việc quản lý rừng và đất rừng vẫn còn những tồn tại, hạn chế như:

Cơ sở pháp lý kiểm toán quản lý rừng và đất rừng còn một số vấn đề chưa đầy đủ

Mặc dù đã được luật định và thậm chí Hiến định về chức năng kiểm toán “việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” song Luật Đất đai năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Lâm nghiệp năm 2017, chưa quy định đầy đủ và toàn diện về vai trò của Kiểm toán nhà nước trong công tác quản lý rừng, đất rừng là một trong những rào cản trong việc thực hiện kiểm toán công tác quản lý rừng, đất rừng tại Việt Nam. Mặc dù Kiểm toán nhà nước là cơ quan duy nhất có thẩm quyền thực hiện kiểm toán, đánh giá công tác quản lý tài chính, tài sản công theo Luật Kiểm toán nhà nước, trong đó bao gồm việc quản lý, bảo vệ môi trường, tài nguyên, đất đai. Tuy nhiên Luật Kiểm toán năm năm 2015 cũng như Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi, bổ sung năm 2019 cũng chưa có quy định cụ thể về công tác quản lý rừng, đất rừng. Điều này dẫn đến khó khăn nhất định trong việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi công tác quản lý rừng, đất rừng; việc phối hợp với các đơn vị được công tác quản lý rừng, đất rừng.

Việc Luật bảo vệ môi trường 2020 được thông qua, có hiệu lực từ 01/1/2022 đã quy định riêng về trách nhiệm của Kiểm toán nhà nước, đây được coi là một thành công lớn của Kiểm toán nhà nước và thể hiện vai trò của Kiểm toán nhà nước đã được nhìn nhận, quan tâm đúng mức. Hiến pháp, Luật Kiểm toán nhà nước quy định đối tượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là việc kiểm toán công tác quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên, Luật Kiểm toán nhà nước cũng chưa quy định rõ về quản lý rừng, đất rừng cũng như quy định môi trường có được coi là tài sản công để kiểm toán hay không. Khoản 1, Điều 3, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công định nghĩa tài sản công bao gồm đất đai và các loại tài nguyên khác trong khi Khoản 11, Điều 3, Luật Kiểm toán nhà nước quy định tài sản công bao gồm: đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên thiên nhiên khác ...

Ngoài ra, hiện cũng chưa có quy định cụ thể về việc kiểm toán, kiểm tra, đối chiếu các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khi thực hiện quản lý rừng, đất rừng, dẫn đến khó khăn, vướng mắc nhất định khi thực hiện kiểm toán.

Văn bản hướng dẫn công tác kiểm toán quản lý rừng và đất rừng chưa đầy đủ

Hiện nay, Kiểm toán nhà nước chưa có hệ thống mẫu biểu đối với hoạt động kiểm toán việc quản lý rừng, đất rừng riêng mà phải vận dụng hồ sơ mẫu biểu chung. Trong khi đó, vấn đề quản lý rừng, đất rừng mang tính chất đặc thù cao. Hồ sơ tài liệu, bằng chứng kiểm toán cũng có sự khác biệt lớn nên các Kiểm toán viên thực hiện nội dung này hết sức khó khăn trong thu thập hồ sơ, tài liệu.

Mặc khác, nội dung, kiến nghị trong báo cáo công tác quản lý rừng, đất rừng tác động đến nhiều đối tượng nhưng thực tế việc lựa chọn hình thức, phát hành và công khai báo cáo kiểm toán được thực hiện theo quy định của Kiểm toán nhà nước, chưa chú ý đến tính kịp thời và đối tượng cung cấp các thông tin, kiến nghị trong báo cáo kiểm toán để có những tác động kịp thời, đúng đối tượng đến hành động của các cơ quan quản lý.

Về hướng dẫn tổ chức thực hiện kiểm toán

Hiện nay, Kiểm toán nhà nước khu vực nói riêng và Kiểm toán nhà nước nói chung chưa thành lập một Đoàn kiểm toán riêng biệt để kiểm toán công tác quản lý rừng, đất rừng mà chỉ thành lập một Tổ kiểm toán kiểm toán nội dung này, thậm chí trong Tổ kiểm toán đó thì công tác quản lý rừng, đất rừng chỉ là một trong nhiều nội dung mà Tổ kiểm toán phải thực hiện. Do vậy, việc quan tâm của Kiểm toán nhà nước đến nội dung này chưa thực sự cao. Các Kiểm toán viên cũng chưa am hiểu đầy đủ các quy định pháp luật về quản lý rừng, đất rừng. Do vậy các đánh giá, kết luận, kiến nghị kiểm toán chưa thực sự cao. Ngoài ra, Kiểm toán nhà nước chưa tổ chức kiểm toán trên quy mô rộng có sự phối hợp giữa các Kiểm toán nhà nước chuyên ngành và Kiểm toán nhà nước khu vực để có sự đồng bộ trong công tác tổ chức và hoạt động chuyên môn. Bên cạnh đó, Kiểm toán nhà nước chưa ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán công tác quản lý rừng và đất rừng, gây ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán bởi rừng là địa bàn đặc thù, khó kiểm tra hiện trường toàn diện, đầy đủ.

Hoàn thiện công tác kiểm toán quản lý rừng, đất rừng do Kiểm toán nhà nước khu vực thực hiện

Việc hoàn thiện kiểm toán công tác quản lý rừng, đất rừng trước hết cần bám sát các chủ trương, đường lối, chính sách về đất đai của Đảng và Nhà nước theo từng thời kỳ theo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật. Ngoài ra, cần tuân thủ theo Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Kiểm toán nhà nước, các quy định, quy chế, văn bản điều hành do Kiểm toán nhà nước ban hành. Các nguyên tắc cần đảm bảo bao gồm: Tuân thủ và phù hợp; Kế thừa; Nhất quán; Toàn diện và khoa học; Khả thi và hữu dụng.

Tác giả đề xuất những giải pháp cụ thể như sau:

Hoàn thiện cơ sở pháp lý kiểm toán quản lý rừng và đất rừng
Để triển khai thực hiện có hiệu quả hoạt động kiểm toán quản lý rừng và đất rừng và Chiến lược phát triển kiểm toán nhà nước đến năm 2030 theo Nghị quyết số 999/2020/UBTVQH14 ngày 16/9/2020, cần tiếp tục hoàn hiện cơ sở, căn cứ pháp lý đầy đủ và rõ ràng. Đây là giải pháp quan trọng, bởi muốn áp dụng kiểm toán quản lý rừng và đất rừng trong nền kinh tế đòi hỏi phải có hệ thống các chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ. Việc hoàn thiện hành lang pháp lý về kiểm toán quản lý rừng và đất rừng phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan của Chính phủ liên quan đến vấn đề môi trường, các tổ chức bảo vệ môi trường, các hội nghề nghiệp…, trong đó cần chú trọng tính độc lập của Kiểm toán nhà nước và đảm bảo sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan hữu quan.

Xây dựng văn bản hướng dẫn công tác kiểm toán quản lý rừng và đất rừng
Kiểm toán nhà nước cần xây dựng hệ thống mẫu biểu đối với hoạt động kiểm toán việc quản lý rừng, đất rừng trên cơ sở vận dụng hệ thống mẫu biểu hồ sơ của Kiểm toán nhà nước gắn với tính đặc thù của cuộc kiểm toán này, đặc biệt chú ý đến các mẫu biểu hồ sơ để thu thập bằng chứng kiểm toán. Việc lựa chọn hình thức, phát hành và công khai báo cáo kiểm toán được thực hiện theo quy định của Kiểm toán nhà nước, đặc biệt chú ý đến tính kịp thời và đối tượng cung cấp các thông tin, kiến nghị trong báo cáo kiểm toán để có những tác động kịp thời, đúng đối tượng đến hành động của các cơ quan quản lý.

Hướng dẫn tổ chức thực hiện kiểm toán. Kiểm toán nhà nước cần nghiên cứu đổi mới tổ chức đoàn kiểm toán công tác quản lý rừng và đất rừng theo hướng kiểm toán chuyên sâu, thành lập những đoàn kiểm toán hoặc nhóm kiểm toán có quy mô nhỏ để từ đó rút kinh nghiệm cho những lần sau. Thành phần nhân sự đoàn kiểm toán phải là những kiểm toán viên có hiểu biết, kinh nghiệm về kiểm toán nói chung và đặc biệt đối với chủ đề này thì phải đặc biệt am hiểu hệ thống luật pháp, quy định... đặc biệt về quản lý rừng, đất rừng. Trong trường hợp cần thiết, có thể mời thêm các chuyên gia, các nhà quản lý trong lĩnh vực liên quan để có những đánh giá đúng đắn và khách quan. Đặc biệt, Kiểm toán nhà nước cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán công tác quản lý rừng và đất rừng. Các kiểm toán viên cần có những công cụ hỗ trợ về công nghệ thông tin để có thể tiếp cận được đối tượng kiểm toán một cách hiệu quả đặc biệt là các phần mềm về quản lý rừng, đất đai. Việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp cho kiểm toán viên nâng cao hiệu quả, chất lượng và tiết kiệm thời gian kiểm toán.

Kiểm toán nhà nước cần tổ chức kiểm toán nội dung quản lý rừng và đất rừng trên quy mô rộng, có sự phối hợp giữa các Kiểm toán nhà nước chuyên ngành và Kiểm toán nhà nước khu vực để có sự đồng bộ trong công tác tổ chức và hoạt động chuyên môn; đề xuất Kiểm toán nhà nước chuyên ngành III chịu trách nhiệm phụ trách Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ là đơn đầu mối trong cuộc kiểm toán.

Về lâu dài, Kiểm toán nhà nước cần định hướng cho các Kiểm toán nhà nước chuyên ngành và Kiểm toán nhà nước khu vực lập kế hoạch trung và dài hạn trong đó chú trọng đến các cuộc kiểm toán chuyên đề về việc quản lý bền vững rừng, đất rừng.

Nâng cao trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán liên quan đến công tác quản lý rừng và đất rừng

Để công tác quản lý rừng và đất rừng có hiệu quả, bền vững, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và mọi người dân đối với công tác bảo vệ và phát triển rừng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng. Kiện toàn, củng cố tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các ngành, các cấp từ Trung ương tới cơ sở về lâm nghiệp; xây dựng lực lượng kiểm lâm đủ mạnh để thực thi hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, khắc phục sự chồng chéo, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, khả thi; thực hiện các chính sách về chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Đặc biệt, cần tăng cường sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành Trung ương và địa phương để thực hiện quyết liệt, hiệu quả công tác kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, thiết lập trật tự, kỷ cương trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Chủ động, nâng cao năng lực, xử lý kịp thời, hiệu quả công tác phòng, chống cháy, chữa cháy và sạt lở đất rừng để hạn chế thấp nhất số vụ cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng.

Tài liệu tham khảo
1. Công văn số 94/KTNN-TH ngày 20/02/2020 của Kiểm toán nhà nước về việc việc hướng dẫn mục tiêu, trọng yếu và nội dung kiểm toán chủ yếu năm 2020;
2. Chuẩn mực kiểm toán nhà nước số 100, Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước;
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013;
4. Luật Kiểm toán nhà nước, 2015;
5. Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/1/2017 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai;
6. Quyết định 111/QĐ-KTNN ngày 04/2/2021 của Kiểm toán nhà nước về việc ban hành quy trình kiểm toán ngân sách địa phương.

CN. Nguyễn Thị Hồng Việt
Kiểm toán nhà nước khu vực VIII
Theo Tạp chí Nghiên cứu khoa học kiểm toán số 178

Xem thêm »