Kiểm toán môi trường - Cơ hội và những vấn đề đặt ra

13/03/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(sav.gov.vn) - Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang trở thành vấn nạn toàn cầu, Liên hợp quốc vừa thông qua Nghị quyết 79/231, trong đó công nhận vai trò quan trọng của các cơ quan Kiểm toán tối cao (SAI) đối với sự phát triển bền vững (PTBV) của môi trường. Động thái này không chỉ nâng tầm vị thế của các SAI trên thế giới, trong đó có Kiểm toán nhà nước (KTNN) Việt Nam và đề cao giá trị của hoạt động kiểm toán môi trường (KTMT) mà còn đặt ra trọng trách nặng nề hơn đối với các SAI...

Những năm qua, KTNN đã tích cực nghiên cứu, phát triển bộ máy KTMT và triển khai nhiều cuộc kiểm toán BVMT. Ảnh: TL

(Phỏng vấn ông Vũ Ngọc Tuấn - Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành III)

Ông có thể chia sẻ một vài suy nghĩ về việc Liên hợp quốc vừa thông qua Nghị quyết trong đó công nhận vai trò then chốt của các SAI đối với sự PTBV của môi trường, thưa ông?

Có thể thấy rõ, PTBV không thể đạt được nếu môi trường bị suy thoái và bảo vệ môi trường đóng vai trò cốt lõi để đảm bảo sự PTBV. Nghị quyết của Liên hợp quốc đã minh chứng rõ thêm rằng vấn đề môi trường và PTBV không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia mà đã trở thành thách thức toàn cầu, được đặc biệt quan tâm. Trên thế giới, KTMT không phải là lĩnh vực mới mà đã được thực hiện ở nhiều quốc gia, nhưng việc Liên hợp quốc đưa vào Nghị quyết và công nhận các SAI có vai trò then chốt đối với sự PTBV của môi trường có ý nghĩa hết sức quan trọng, ghi nhận trên phạm vi toàn cầu về vai trò của các SAI, đồng thời đặt ra yêu cầu, trách nhiệm đối với các SAI góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực thi chính sách và cam kết về môi trường, đảm bảo các mục tiêu PTBV. Đối với KTNN Việt Nam, đây vừa là cơ sở, vừa là động lực để tăng cường đẩy mạnh, phát triển hơn nữa hoạt động KTMT, một lĩnh vực kiểm toán còn mới tại Việt Nam.

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi bảo vệ môi trường (BVMT) là một nhiệm vụ trọng tâm, là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.

Trước yêu cầu ngày càng cao về PTBV và BVMT, KTMT trở thành công cụ quan trọng nhằm đánh giá việc quản lý tài nguyên có đảm bảo tuân thủ pháp luật và nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước. Luật BVMT năm 2014 khuyến khích thực hiện KTMT; Luật BVMT năm 2020 đã xác định trách nhiệm của KTNN trong lĩnh vực này. Điều này cho thấy, KTMT không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn là nhiệm vụ trọng tâm của KTNN.

Với việc Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết 79/231, KTNN có thêm căn cứ để đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến KTMT, nâng cao vai trò, vị thế của KTNN, tăng cường sự phối hợp công tác với các Bộ, ngành, địa phương… tạo môi trường, điều kiện thuận lợi hơn nữa để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ KTMT. Bởi thực tế, khi Liên hợp quốc đã quan tâm, đưa vào Nghị quyết thì mỗi quốc gia thành viên đều lưu ý thực hiện.

Như ông vừa chia sẻ, KTMT không phải là lĩnh vực mới trên thế giới. Nhưng thực tế số lượng các cuộc KTMT đã được KTNN Việt Nam thực hiện vẫn còn khiêm tốn. Từ phía đơn vị chủ lực của KTNN Việt Nam trong thực hiện KTMT, ông đánh giá như thế nào về kết quả đã đạt được, thưa ông?

Những năm qua, KTNN đã tích cực nghiên cứu, phát triển bộ máy KTMT và triển khai nhiều cuộc kiểm toán BVMT. Trên cương vị Chủ tịch ASOSAI nhiệm kỳ 2018-2021, KTNN Việt Nam đã đề xuất và được sự thống nhất cao của Đại hội ASOSAI 14 để thông qua Tuyên bố Hà Nội, trong đó nhấn mạnh việc chú trọng phát triển KTMT vì sự PTBV. Trong Chiến lược phát triển, KTNN cũng xác định phải tăng số lượng các cuộc KTMT, kiểm toán hoạt động, kiểm toán công nghệ thông tin đến năm 2025 đạt khoảng 30% và đến năm 2030 đạt từ 40% tổng số các cuộc kiểm toán của KTNN hằng năm.

Giai đoạn 2015-2024, KTNN đã thực hiện khoảng 25 cuộc KTMT. Theo thời gian, chất lượng KTMT không ngừng được nâng cao, giúp phát hiện và làm rõ nhiều bất cập trong công tác quản lý BVMT như: Hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, một số quy định, cơ chế, chính sách còn bất cập, hiệu lực thi hành chưa cao; phân công, phân cấp quản lý môi trường còn chồng chéo, gây khó khăn trong điều hành và thực thi; công tác thẩm định, phê duyệt hồ sơ môi trường chưa chặt chẽ, tiềm ẩn nguy cơ bỏ sót vi phạm; việc chấp hành các quy định về BVMT của nhiều đơn vị chưa nghiêm, dẫn đến những tác động tiêu cực đến môi trường. Đồng thời, KTNN cũng phát hiện công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm còn hạn chế, chưa đảm bảo tính răn đe và ngăn ngừa sai phạm; nguồn lực tài chính và nhân sự cho BVMT chưa đáp ứng yêu cầu, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách.

Trên cơ sở đó, KTNN đã đưa ra nhiều kiến nghị nhằm chấn chỉnh, khắc phục các tồn tại; đồng thời, đề xuất sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Những kiến nghị này đã góp phần giúp Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện khung pháp lý về quản lý môi trường nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi. Qua theo dõi báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN cho thấy, chất lượng quản lý, giám sát môi trường tại các đơn vị được kiểm toán đã có sự cải thiện đáng kể; những tồn tại bất cập qua kiểm toán đã được các đơn vị từng bước khắc phục, góp phần cải thiện chất lượng môi trường qua các năm. Điều đó phản ánh tác động tích cực và thực tiễn của KTMT.

Theo ông, chúng ta cần phải tập trung vào những giải pháp nào để công tác KTMT của KTNN Việt Nam phù hợp với tầm vóc, vị thế mới như Liên hợp quốc đã đưa vào Nghị quyết, cũng như hỗ trợ đắc lực, hiệu quả hơn cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong công tác quản lý, giám sát và BVMT?

Để phát triển hoạt động KTMT, nâng cao chất lượng KTMT, theo tôi, cần tập trung vào 5 giải pháp.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho KTMT, đảm bảo thống nhất với các quy định hiện hành. Đặc biệt, cần bổ sung quy định về KTMT trong Luật KTNN, làm rõ đối tượng, nội dung, đơn vị được kiểm toán trong lĩnh vực môi trường. Điều này không chỉ nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các đơn vị liên quan mà còn tạo cơ sở vững chắc để KTNN triển khai kiểm toán hiệu quả, góp phần tăng cường quản lý và BVMT.

Thứ hai, phát triển tổ chức bộ máy KTMT chuyên nghiệp, hiệu quả; trọng tâm là xây dựng đội ngũ KTV và công chức KTMT đủ về số lượng, vững về chuyên môn, có cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tăng cường đào tạo về KTMT cho KTV, là nhân tố then chốt để phát triển KTMT; bên cạnh đó có định hướng, giải pháp thu hút các chuyên gia môi trường, nhà khoa học, nhà quản lý tham gia hoạt động KTMT theo hình thức hợp lý.

Thứ ba, từng bước mở rộng quy mô, phạm vi chủ đề, tăng cường số lượng cuộc kiểm toán KTMT theo lộ trình; kết hợp hài hòa kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động BVMT. Cần có định hướng về các chủ đề KTMT trong từng giai đoạn, quan tâm tới các vấn đề chính sách, các thành phần môi trường trọng yếu. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động KTMT thông qua ứng dụng công nghệ số, tích hợp AI và các công cụ kiểm toán hiện đại để phân tích dữ liệu, tiếp cận công nghệ và dữ liệu từ các nhà cung cấp dịch vụ chuyên môn, đảm bảo KTMT bắt kịp xu hướng kiểm toán hiện đại trên thế giới; tuy nhiên để thực hiện được điều này cần cả hai yếu tố nhân lực và tài lực.

Thứ tư, cần thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý môi trường, đảm bảo chia sẻ dữ liệu phục vụ KTMT kịp thời, đầy đủ và thông suốt; xây dựng hạ tầng dữ liệu liên thông với cơ sở dữ liệu môi trường của các Bộ, ngành, đơn vị được kiểm toán và các tổ chức liên quan. Việc này nâng cao chất lượng lựa chọn chủ đề, đầu mối kiểm toán, nâng cao hiệu năng thực hiện các cuộc KTMT, đáp ứng yêu cầu giám sát môi trường hiệu quả.

Thứ năm, tăng cường nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và thúc đẩy hợp tác KTMT với các quốc gia khác. Nghị quyết của Liên hợp quốc tạo cơ sở để các SAI hợp tác chặt chẽ hơn trong KTMT, đặc biệt các vấn đề môi trường xuyên biên giới.

Xin trân trọng cảm ơn ông!./.

Hồng Thoan - Nguyễn Lộc  - Theo Báo Kiểm toán số 13/2025

Xem thêm »