Để rút ngắn thời gian lập và phát hành báo cáo kiểm toán

10/03/2014
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Năm 2013 KTNN chuyên ngành V được giao thực hiện 16 cuộc kiểm toán, bao gồm 1 cuộc kiểm toán chuyên đề; 1 cuộc kiểm toán chương trình mục tiêu quốc gia; 11 cuộc kiểm toán dự án đầu tư nhóm A thuộc lĩnh vực xây dựng, công nghiệp và dân dụng; 3 cuộc kiểm toán tổng công ty xây lắp. Do tính chất đa dạng của nhiệm vụ kiểm toán được giao, bao gồm cả lĩnh vực ngân sách, DN, dự án đầu tư và các đoàn kiểm toán hoạt động phân tán, phạm vi kiểm toán rộng; một số cuộc kiểm toán phải thực hiện tại nhiều cơ quan, đơn vị, Bộ, ngành, các tỉnh, thành cả nước nên việc bố trí các cuộc kiểm toán trong từng đợt phải căn cứ trên cơ sở, tính chất, khối lượng công việc và điều kiện cung cấp hồ sơ của các đơn vị được kiểm toán, đồng thời đảm bảo sử dụng hiệu quả cơ cấu cũng như trình độ chuyên môn của lực lượng kiểm toán viên (KTV) hiện có.

Trong bối cảnh đó, KTNN chuyên ngành V đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Các báo cáo kiểm toán (BCKT) phát hành đảm bảo đúng thời gian quy định. Đáng chú ý, một số đoàn kiểm toán đã hoàn thành lập và phát hành BCKT trong 30 ngày sau khi kết thúc kiểm toán.

Đạt được kết quả trên, bên cạnh sự quan tâm thường xuyên của lãnh đạo KTNN, sự phối hợp hiệu quả của các đơn vị chức năng, còn là do sự chỉ đạo xuyên suốt, thống nhất của lãnh đạo đơn vị, sự chú trọng triển khai các giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm đơn vị đã đề ra của các đoàn kiểm toán. Cụ thể:

Đã quan tâm việc xác định về thời gian, đồng thời phân công ngay trưởng đoàn kiểm toán để triển khai các quy định chung của ngành cũng như của riêng cuộc kiểm toán; phân công các KTV đủ năng lực thực hiện khảo sát và lập KHKT. Từ đó lựa chọn các đơn vị kiểm toán và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho hoạt động của đoàn kiểm toán, trình các Vụ chức năng thẩm định soát xét trước khi kiểm toán.

Trên cơ sở KHKT được phê duyệt, các đoàn kiểm toán tiến hành tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, phổ biến các văn bản chính sách chế độ đang được áp dụng, trao đổi kinh nghiệm về những nội dung của các đợt kiểm toán đã thực hiện trước đó, đặc biệt nhấn mạnh việc thực hiện nghiêm túc Quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn kiểm toán, Quy tắc ứng xử của KTV Nhà nước; phân công rõ trách nhiệm của  từng thành viên trong đoàn.

Các đoàn kiểm toán duy trì đầy đủ chế độ sinh hoạt Đảng và quy định báo cáo định kỳ, tổng hợp kịp thời những ý kiến, quan điểm khác nhau của các tổ kiểm toán để báo cáo Kiểm toán trưởng và lãnh đạo KTNN. Do đó, khi kết thúc kiểm toán, BCKT luôn được xem xét một cách chặt chẽ, đạt được sự thống nhất cao trong nội bộ đoàn.

Khi kết thúc kiểm toán tại đơn vị, các số liệu, ý kiến đánh giá nhận xét của các tổ kiểm toán đã được hệ thống một cách đầy đủ làm cơ sở cho việc lập dự thảo BCKT của đoàn. Điều đó giúp rút ngắn thời gian lập dự thảo BCKT, tăng thời gian soát xét, thẩm định của các tổ và Hội đồng thẩm định cấp Vụ, góp phần nâng cao chất lượng BCKT.

BCKT của các tổ kiểm toán được kiểm tra chéo, xem xét kỹ lưỡng trước khi trình Hội đồng thẩm định cấp Vụ xem xét, trình các Vụ chức năng soát xét. Đáng chú ý, Hội đồng thẩm định cấp Vụ được thành lập từ những thành viên có kinh nghiệm phù hợp với lĩnh vực được tổng hợp trong BCKT.

Luôn đảm bảo thực hiện đúng và nghiêm túc kế hoạch kiểm toán đã được phê duyệt, đảm bảo nội dung, mục tiêu kiểm toán.

Việc thực hiện tốt các vấn đề trên đã góp phần quan trọng rút ngắn thời gian lập và phát hành BCKT của đoàn kiểm toán xuống còn 30 ngày./.


Xem thêm »