21/10/2020
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Quốc hội nghe Báo cáo và Báo cáo thẩm tra: “Kết quả thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 theo Nghị quyết số 24/2016/QH14 của Quốc hội”(sav.gov.vn) - Chiều 20/10/2020, Quốc hội họp trực tuyến, nghe báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành phiên họp.5 mục tiêu quan trọng trong “Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020” hoàn thành vượt xa so với kế hoạch đề ra
Thừa ủy quyền của Thủ trướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 với 5 nhóm nhiệm vụ và 22 mục tiêu cụ thể về cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020.
Theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27 với 16 nhóm nhiệm vụ. Đến 2020, hầu hết các nhiệm vụ đã được triển khai và có kết quả. Giai đoạn 2016 - 2020, khoảng 234 văn bản các loại đã được soạn thảo và ban hành, trong đó đã trình Quốc hội thông qua 26 Luật. Đến năm 2020, dự kiến 15 trong số 22 mục tiêu được giao tại Nghị quyết số 24 đã hoàn thành và có khả năng hoàn thành; 5 mục tiêu quan trọng đã vượt xa so với kế hoạch đề ra, đó là: Một là quy mô nợ công giảm từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống khoảng 55% GDP cuối năm 2019. Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nợ công có thể tăng đến 57-58% GDP, song vẫn thấp hơn so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2016-2020 là không quá 65% GDP. Hai là quy mô nợ chính phủ đã giảm mạnh từ 52,7% năm 2016 xuống 48% GDP đến cuối năm 2019, thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu không quá 54%. Ba là tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm mạnh từ 44% năm 2015 xuống 41,6% năm 2016, và ước năm 2020 còn 34%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu dưới 40%. Bốn là năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 ước đạt 45,21%, vượt xa so với mục tiêu 30%-35% được đề ra trong Nghị quyết. Năm là dư nợ thị trường trái phiếu đến năm 2019 đạt 40,14% vượt xa so với mục tiêu đến năm 2020 đạt 30% GDP.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, có 7 mục tiêu có khả năng không hoàn thành là: Bội chi ngân sách Nhà nước; Tỷ lệ nợ xấu; Nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công đạt mức chất lượng tiếp cận 04 nước ASEAN phát triển nhất (ASEAN-4); Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN); Đạt 1 triệu doanh nghiệp…
Cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư của Nhà nước, tăng tỷ trọng nguồn vốn đầu tư ngoài Nhà nước từ 38,9% năm 2016 lên 46% năm 2019; cải thiện dần hiệu quả đầu tư với chỉ số ICOR ước khoảng 6,1 giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó, cơ cấu lại DNNN được đẩy mạnh và thực chất hơn; các mục tiêu cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đã cơ bản hoàn thành; hệ thống các tổ chức tín dụng đã được củng cố một bước, nâng cao hơn năng lực quản trị; xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất, hiệu quả hơn; cơ cấu lại Ngân sách Nhà nước đã đạt được những thay đổi tích cực về quy mô, giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư. Thủ tục hành chính và các điều kiện kinh doanh bất hợp lý gây cản trở đến sự phát triển kinh tế tư nhân được rà soát, cắt bỏ, môi trường kinh doanh được cải thiện. Cơ cấu thu hút FDI được điều chỉnh với tỷ trọng thu hút phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, thu hút đầu tư FDI lớn nhất trong các ngành kinh tế.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, việc triển khai kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 vẫn còn một số hạn chế như: Mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng chưa rõ nét; Tốc độ tăng năng suất lao động còn thấp, đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng trưởng năng suất lao động còn thấp; Chuyển đổi mô hình tăng trưởng chậm; Khu vực tư nhân trong nước phát triển chưa tương xứng với quy mô và độ mở của nền kinh tế; Mức độ phụ thuộc vào khu vực kinh tế nước ngoài chưa giảm; Chuyển biến cơ cấu nội ngành chưa rõ nét và bền vững; Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp; Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm; Khu vực dịch vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng; Cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước chậm; Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực DNNN chậm được cải thiện; Hiệu quả đầu tư công chưa cao, giải ngân vốn đầu tư công còn chậm và nhiều vướng mắc; Tiến độ, chất lượng xử lý nợ xấu, các tổ chức tín dụng yếu kém chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế…
Về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025, theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, căn cứ vào kết quả đánh giá thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, những phân tích về bối cảnh quốc tế, trong nước và các định hướng cho giai đoạn 2021-2025, Chính phủ kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục triển khai các nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhất các mục tiêu và nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế cho giai đoạn 2016-2020; thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế với bước đi phù hợp song song với các nỗ lực phòng, chống dịch và thúc đẩy phục hồi kinh tế trong bối cảnh đại dịch và xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cho giai đoạn 2021-2025 trình Quốc hội trong Kỳ họp tới.
Các mục tiêu về nợ công hoàn thành vượt xa mục tiêu đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn nợ công
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về “Kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020”, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra
Theo đó, việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế cơ bản đã bám sát yêu cầu của Nghị quyết 24 và quan điểm về đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển các ngành, lĩnh vực có liên quan được xác định tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã có những hành động rõ nét trong thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế và nhiều quy định, chính sách đột phá đã được ban hành. Các mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đạt nhiều kết quả tích cực. Thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực từng bước được hoàn thiện, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập. Vẫn còn một số quy định vẫn chậm được bổ sung, sửa đổi như: Quy định về tiêu chí sắp xếp, lựa chọn và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư công phù hợp với thông lệ quốc tế; cơ chế, tổ chức bộ máy điều phối phát triển vùng; quy định về quản lý, sử dụng nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, việc quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp…
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh, có 15/22 mục tiêu hoàn thành hoặc có khả năng hoàn thành. Trong đó, các mục tiêu về năng suất, đổi mới công nghệ đạt và vượt mục tiêu đề ra. Xếp hạng đổi mới sáng tạo toàn cầu dẫn đầu trong nhóm 29 nền kinh tế thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN. Các mục tiêu về nợ công hoàn thành vượt xa mục tiêu đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn nợ công, an toàn tài chính quốc gia, giảm áp lực trả nợ lên ngân sách Nhà nước. Còn còn 7/22 mục tiêu có khả năng không hoàn thành, đặc biệt đến giữa năm 2020 mới chỉ hoàn thành 28% kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo Danh mục phê duyệt trong giai đoạn 2017-2020, còn 28 doanh nghiệp phải thực hiện thoái vốn với giá trị lớn.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho rằng, việc thực hiện cơ cấu lại 3 trọng tâm đã tạo một số chuyển biến tích cực về hiệu quả phân bổ, sử dụng đầu tư công, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc thực hiện còn chậm so với yêu cầu đề ra, nhất là nguồn lực tài chính công. Cơ cấu đầu tư công theo ngành, lĩnh vực và vùng còn dàn trải, không phát huy được vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương trong đầu tư phát triển. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực được giao; doanh nghiệp được cổ phần hóa chậm nâng cao chất lượng quản trị, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Năng lực cạnh tranh của hệ thống các tổ chức tín dụng còn hạn chế, ít các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh tầm khu vực. Việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội còn một số tồn tại, vướng mắc.
Việc thực hiện cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, khu vực công đạt nhiều kết quả tích cực về quy mô, cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước và huy động vốn vay. Tuy nhiên, chính sách thu vẫn chậm được điều chỉnh, chưa bao quát hết các nguồn thu và thiếu đồng bộ với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư. Kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách trong một số trường hợp chưa được bảo đảm. Đổi mới hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, mức độ tự chủ tài chính chưa cao. Cơ chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa chưa đủ mạnh, việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập còn bất cập, lúng túng.
Khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã có chuyển biến về chất lượng và hiệu quả, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu, nhưng mục tiêu tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đến năm 2020 đạt khoảng 50% khó hoàn thành. Việc thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, liên kết giữa khu vực FDI với khu vực trong nước thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan tỏa năng suất chưa cao. Nước ta có nguy cơ bị “mắc kẹt” ở những công đoạn khá thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Cơ cấu kinh tế ngành, vùng bước chưa tạo chuyển biến rõ nét về hiệu quả sử dụng nguồn lực; Cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa tạo chuyển biến mạnh về tổ chức sản xuất; Cơ cấu lại ngành công nghiệp còn chậm (Cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ và hình thành các cụm chuyên môn hóa); Cơ cấu lại khu vực dịch vụ chưa tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển các ngành có hàm lượng tri thức, khoa học công nghệ cao; Hiệu quả hoạt động của hệ thống phân phối và chất lượng phát triển du lịch còn thấp; Liên kết vùng chưa đi vào thực chất, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế đặc thù của từng vùng, địa phương.
Thị trường chưa thực sự trở thành kênh phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội. Thị trường khoa học và công nghệ vẫn chậm phát triển. Các thiết chế hỗ trợ phát triển thị trường lao động, quan hệ lao động hiệu quả còn thấp. Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa tạo điều kiện tập trung, tích tụ ruộng đất cho sản xuất lớn.
Toàn cảnh phiên họp
Về định hướng xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng phải thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế quyết liệt hơn nhằm nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực theo cơ chế thị trường, “giải phóng” nguồn lực sản xuất của nền kinh tế. Ủy ban Kinh tế tán thành việc trình Quốc hội xem xét, thông qua “Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025”. Chính phủ cần đổi mới mạnh mẽ về thể chế phát triển thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ; hoàn thiện thể chế đối với các hình thức kinh doanh mới; đổi mới toàn diện phương thức quản lý Nhà nước về kinh tế, cải cách thể chế kinh tế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế số, xây dựng Nhà nước liêm chính, kiến tạo, Chính phủ điện tử, tăng cường kỷ cương, kỷ luật và hiệu lực thực thi pháp luật; giảm thiểu vai trò kinh doanh, đầu tư trực tiếp của Nhà nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có lộ trình và giải pháp khả thi để hoàn thành dứt điểm cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức tín dụng trong những năm đầu của giai đoạn 2021-2025 nhằm tập trung nguồn lực thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đặc biệt phát triển khu vực kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là chủ thể quan trọng của quá trình cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, đổi mới sáng tạo, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ hình thành, phát triển một số doanh nghiệp tư nhân lớn, có tiềm lực mạnh, khả năng cạnh tranh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; thu hút, sử dụng FDI hiệu quả, thúc đẩy kết nối giữa khu vực doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI.
Tập trung nguồn lực đầu tư phát triển các ngành và địa bàn kinh tế ưu tiên. Hoàn thiện thể chế liên kết vùng, triển khai tốt công tác quy hoạch nhằm phát huy các tiềm năng, lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương, tăng tính kết nối nội vùng và liên vùng, tạo không gian phát triển mới. Thúc đẩy phát triển đô thị và kinh tế đô thị, phát huy vai trò là đầu tàu trong tăng trưởng, đổi mới sáng tạo của các đô thị lớn./.
Khánh Vy
(sav.gov.vn) - Chiều 20/10/2020, Quốc hội họp trực tuyến, nghe báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành phiên họp.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày Báo cáo trước Quốc hội
5 mục tiêu quan trọng trong “Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020” hoàn thành vượt xa so với kế hoạch đề ra
Thừa ủy quyền của Thủ trướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 với 5 nhóm nhiệm vụ và 22 mục tiêu cụ thể về cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020.
Theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27 với 16 nhóm nhiệm vụ. Đến 2020, hầu hết các nhiệm vụ đã được triển khai và có kết quả. Giai đoạn 2016 - 2020, khoảng 234 văn bản các loại đã được soạn thảo và ban hành, trong đó đã trình Quốc hội thông qua 26 Luật. Đến năm 2020, dự kiến 15 trong số 22 mục tiêu được giao tại Nghị quyết số 24 đã hoàn thành và có khả năng hoàn thành; 5 mục tiêu quan trọng đã vượt xa so với kế hoạch đề ra, đó là: Một là quy mô nợ công giảm từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống khoảng 55% GDP cuối năm 2019. Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nợ công có thể tăng đến 57-58% GDP, song vẫn thấp hơn so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2016-2020 là không quá 65% GDP. Hai là quy mô nợ chính phủ đã giảm mạnh từ 52,7% năm 2016 xuống 48% GDP đến cuối năm 2019, thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu không quá 54%. Ba là tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm mạnh từ 44% năm 2015 xuống 41,6% năm 2016, và ước năm 2020 còn 34%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu dưới 40%. Bốn là năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 ước đạt 45,21%, vượt xa so với mục tiêu 30%-35% được đề ra trong Nghị quyết. Năm là dư nợ thị trường trái phiếu đến năm 2019 đạt 40,14% vượt xa so với mục tiêu đến năm 2020 đạt 30% GDP.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, có 7 mục tiêu có khả năng không hoàn thành là: Bội chi ngân sách Nhà nước; Tỷ lệ nợ xấu; Nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công đạt mức chất lượng tiếp cận 04 nước ASEAN phát triển nhất (ASEAN-4); Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN); Đạt 1 triệu doanh nghiệp…
Cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư của Nhà nước, tăng tỷ trọng nguồn vốn đầu tư ngoài Nhà nước từ 38,9% năm 2016 lên 46% năm 2019; cải thiện dần hiệu quả đầu tư với chỉ số ICOR ước khoảng 6,1 giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó, cơ cấu lại DNNN được đẩy mạnh và thực chất hơn; các mục tiêu cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đã cơ bản hoàn thành; hệ thống các tổ chức tín dụng đã được củng cố một bước, nâng cao hơn năng lực quản trị; xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất, hiệu quả hơn; cơ cấu lại Ngân sách Nhà nước đã đạt được những thay đổi tích cực về quy mô, giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư. Thủ tục hành chính và các điều kiện kinh doanh bất hợp lý gây cản trở đến sự phát triển kinh tế tư nhân được rà soát, cắt bỏ, môi trường kinh doanh được cải thiện. Cơ cấu thu hút FDI được điều chỉnh với tỷ trọng thu hút phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, thu hút đầu tư FDI lớn nhất trong các ngành kinh tế.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, việc triển khai kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 vẫn còn một số hạn chế như: Mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng chưa rõ nét; Tốc độ tăng năng suất lao động còn thấp, đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng trưởng năng suất lao động còn thấp; Chuyển đổi mô hình tăng trưởng chậm; Khu vực tư nhân trong nước phát triển chưa tương xứng với quy mô và độ mở của nền kinh tế; Mức độ phụ thuộc vào khu vực kinh tế nước ngoài chưa giảm; Chuyển biến cơ cấu nội ngành chưa rõ nét và bền vững; Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp; Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm; Khu vực dịch vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng; Cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước chậm; Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực DNNN chậm được cải thiện; Hiệu quả đầu tư công chưa cao, giải ngân vốn đầu tư công còn chậm và nhiều vướng mắc; Tiến độ, chất lượng xử lý nợ xấu, các tổ chức tín dụng yếu kém chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế…
Về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025, theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, căn cứ vào kết quả đánh giá thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, những phân tích về bối cảnh quốc tế, trong nước và các định hướng cho giai đoạn 2021-2025, Chính phủ kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục triển khai các nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhất các mục tiêu và nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế cho giai đoạn 2016-2020; thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế với bước đi phù hợp song song với các nỗ lực phòng, chống dịch và thúc đẩy phục hồi kinh tế trong bối cảnh đại dịch và xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cho giai đoạn 2021-2025 trình Quốc hội trong Kỳ họp tới.
Các mục tiêu về nợ công hoàn thành vượt xa mục tiêu đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn nợ công
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về “Kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020”, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Theo đó, việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế cơ bản đã bám sát yêu cầu của Nghị quyết 24 và quan điểm về đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển các ngành, lĩnh vực có liên quan được xác định tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã có những hành động rõ nét trong thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế và nhiều quy định, chính sách đột phá đã được ban hành. Các mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đạt nhiều kết quả tích cực. Thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực từng bước được hoàn thiện, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập. Vẫn còn một số quy định vẫn chậm được bổ sung, sửa đổi như: Quy định về tiêu chí sắp xếp, lựa chọn và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư công phù hợp với thông lệ quốc tế; cơ chế, tổ chức bộ máy điều phối phát triển vùng; quy định về quản lý, sử dụng nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, việc quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp…
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh, có 15/22 mục tiêu hoàn thành hoặc có khả năng hoàn thành. Trong đó, các mục tiêu về năng suất, đổi mới công nghệ đạt và vượt mục tiêu đề ra. Xếp hạng đổi mới sáng tạo toàn cầu dẫn đầu trong nhóm 29 nền kinh tế thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN. Các mục tiêu về nợ công hoàn thành vượt xa mục tiêu đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn nợ công, an toàn tài chính quốc gia, giảm áp lực trả nợ lên ngân sách Nhà nước. Còn còn 7/22 mục tiêu có khả năng không hoàn thành, đặc biệt đến giữa năm 2020 mới chỉ hoàn thành 28% kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo Danh mục phê duyệt trong giai đoạn 2017-2020, còn 28 doanh nghiệp phải thực hiện thoái vốn với giá trị lớn.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho rằng, việc thực hiện cơ cấu lại 3 trọng tâm đã tạo một số chuyển biến tích cực về hiệu quả phân bổ, sử dụng đầu tư công, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc thực hiện còn chậm so với yêu cầu đề ra, nhất là nguồn lực tài chính công. Cơ cấu đầu tư công theo ngành, lĩnh vực và vùng còn dàn trải, không phát huy được vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương trong đầu tư phát triển. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực được giao; doanh nghiệp được cổ phần hóa chậm nâng cao chất lượng quản trị, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Năng lực cạnh tranh của hệ thống các tổ chức tín dụng còn hạn chế, ít các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh tầm khu vực. Việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội còn một số tồn tại, vướng mắc.
Việc thực hiện cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, khu vực công đạt nhiều kết quả tích cực về quy mô, cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước và huy động vốn vay. Tuy nhiên, chính sách thu vẫn chậm được điều chỉnh, chưa bao quát hết các nguồn thu và thiếu đồng bộ với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư. Kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách trong một số trường hợp chưa được bảo đảm. Đổi mới hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, mức độ tự chủ tài chính chưa cao. Cơ chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa chưa đủ mạnh, việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập còn bất cập, lúng túng.
Khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã có chuyển biến về chất lượng và hiệu quả, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu, nhưng mục tiêu tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đến năm 2020 đạt khoảng 50% khó hoàn thành. Việc thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, liên kết giữa khu vực FDI với khu vực trong nước thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan tỏa năng suất chưa cao. Nước ta có nguy cơ bị “mắc kẹt” ở những công đoạn khá thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Cơ cấu kinh tế ngành, vùng bước chưa tạo chuyển biến rõ nét về hiệu quả sử dụng nguồn lực; Cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa tạo chuyển biến mạnh về tổ chức sản xuất; Cơ cấu lại ngành công nghiệp còn chậm (Cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ và hình thành các cụm chuyên môn hóa); Cơ cấu lại khu vực dịch vụ chưa tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển các ngành có hàm lượng tri thức, khoa học công nghệ cao; Hiệu quả hoạt động của hệ thống phân phối và chất lượng phát triển du lịch còn thấp; Liên kết vùng chưa đi vào thực chất, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế đặc thù của từng vùng, địa phương.
Thị trường chưa thực sự trở thành kênh phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội. Thị trường khoa học và công nghệ vẫn chậm phát triển. Các thiết chế hỗ trợ phát triển thị trường lao động, quan hệ lao động hiệu quả còn thấp. Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa tạo điều kiện tập trung, tích tụ ruộng đất cho sản xuất lớn.
Về định hướng xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng phải thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế quyết liệt hơn nhằm nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực theo cơ chế thị trường, “giải phóng” nguồn lực sản xuất của nền kinh tế. Ủy ban Kinh tế tán thành việc trình Quốc hội xem xét, thông qua “Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025”. Chính phủ cần đổi mới mạnh mẽ về thể chế phát triển thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ; hoàn thiện thể chế đối với các hình thức kinh doanh mới; đổi mới toàn diện phương thức quản lý Nhà nước về kinh tế, cải cách thể chế kinh tế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế số, xây dựng Nhà nước liêm chính, kiến tạo, Chính phủ điện tử, tăng cường kỷ cương, kỷ luật và hiệu lực thực thi pháp luật; giảm thiểu vai trò kinh doanh, đầu tư trực tiếp của Nhà nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có lộ trình và giải pháp khả thi để hoàn thành dứt điểm cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức tín dụng trong những năm đầu của giai đoạn 2021-2025 nhằm tập trung nguồn lực thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đặc biệt phát triển khu vực kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là chủ thể quan trọng của quá trình cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, đổi mới sáng tạo, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ hình thành, phát triển một số doanh nghiệp tư nhân lớn, có tiềm lực mạnh, khả năng cạnh tranh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; thu hút, sử dụng FDI hiệu quả, thúc đẩy kết nối giữa khu vực doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI.
Tập trung nguồn lực đầu tư phát triển các ngành và địa bàn kinh tế ưu tiên. Hoàn thiện thể chế liên kết vùng, triển khai tốt công tác quy hoạch nhằm phát huy các tiềm năng, lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương, tăng tính kết nối nội vùng và liên vùng, tạo không gian phát triển mới. Thúc đẩy phát triển đô thị và kinh tế đô thị, phát huy vai trò là đầu tàu trong tăng trưởng, đổi mới sáng tạo của các đô thị lớn./.
Khánh Vy