Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường trình bày báo cáo của Chính phủ
Chuyển mục đích sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận; 1.131,22 ha đất rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Báo cáo về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, dự án hồ chứa nước sông Than được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận phê duyệt lần đầu tại Quyết định số 971/QĐ-UBND ngày 14/5/2010 với diện tích sử dụng đất 801,15 ha nhưng dự án phải tạm dừng do khó khăn về nguồn vốn. Năm 2016, do tình hình hạn hán xảy ra nghiêm trọng, nhu cầu cấp bách của việc chống hạn, dự án được đưa vào bố trí kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2017-2020. Năm 2017, tỉnh Ninh Thuận phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư. Dự án được khởi công xây dựng vào tháng 7 năm 2018 đến nay đã triển khai xây dựng được khoảng 35% khối lượng công việc.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nêu rõ, dự án có trong Danh mục các công trình, dự án theo Điều chỉnh quy hoạch đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) của tỉnh Ninh Thuận được Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số 113/NQ-CP ngày 30/8/2018. Báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định. Hiện tại, tỉnh Ninh Thuận đang hoàn thiện, bổ sung, giải trình để trình Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, phê duyệt theo đúng quy định.
Làm rõ lý do dự án phát sinh tiêu chí công trình quan trọng quốc gia, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, tại Quyết định phê duyệt lần thứ nhất năm 2010, dự án Hồ Sông Than không thuộc nhóm dự án, công trình quan trọng quốc gia theo quy định tại Nghị quyết số 66/2006/NQ-QH11. Tại Quyết định phê duyệt lần thứ hai năm 2017, Dự án Hồ chứa nước Sông Than vẫn không thuộc dự án, công trình quan trọng quốc gia quy định của Nghị quyết số 49/2010/QH12. Đến năm 2019, sau khi UBND tỉnh Ninh Thuận điều chỉnh diện tích rừng thì dự án Hồ chứa nước Sông Than thuộc dự án quan trọng quốc gia và thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thuộc Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, dự án có phát sinh tiêu chí quan trọng do có sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ đầu nguồn. Vì vậy, việc Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ để thực hiện dự án là đúng quy định; vị trí rừng phải chuyển đổi của dự án là bắt buộc để bảo đảm hiệu quả đầu tư công trình.
Về dự án hồ chứa nước Bản Mồng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nêu rõ, dự án được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư tại Văn bản số 154/TTg-NN ngày 20/01/2006; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt dự án đầu tư năm 2009 và được khởi công năm 2010 nhưng đến năm 2011 dự án tạm dừng do Chỉ thị số 1792/CT-TTg. Năm 2017, dự án được bố trí vốn trở lại trong trung hạn 2016-2020 để tiếp tục thực hiện và được Chính phủ cho phép phân kỳ đầu tư thành 02 giai đoạn. Đến nay, dự án đã triển khai xây dựng được khoảng 90% khối lượng công việc; lũy kế giải ngân đến nay đạt 83% và dự kiến đến cuối năm 2020 cơ bản hoàn thành giai đoạn I.
Làm rõ lý do dự án phát sinh tiêu chí công trình quan trọng quốc gia Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, tại Quyết định phê duyệt lần đầu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2009, dự án Hồ chứa nước Bản Mồng không thuộc dự án, công trình quan trọng quốc gia. Năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt điều chỉnh dự án và năm 2019, UBND tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An đã xác định Dự án có 312,95 ha rừng phòng hộ phải chuyển mục đích sử dụng rừng nên thuộc tiêu chí dự án quan trọng quốc gia và thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thuộc Quốc hội.
Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 1.131,22 ha đất rừng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An (544,77 ha) và Thanh Hóa (586,45 ha), trong đó: Rừng phòng hộ 312,95 ha rừng phòng hộ, 661,08 ha rừng sản xuất và 157,19 ha rừng ngoài quy hoạch lâm nghiệp để thực hiện dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.
Đề nghị Quốc hội cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để bảo đảm tiến độ, sớm đưa các dự án vào hoạt động
Trình bày báo cáo thẩm tra về chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện dự án hồ chứa nước sông Than, tỉnh Ninh Thuận và dự án hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành các nội dung về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng như báo cáo của Chính phủ.
Qua khảo sát thực tế và báo cáo tại các địa phương cho thấy, các tỉnh đều thực hiện tốt công tác trồng rừng, có tỷ lệ che phủ rừng cao; diện tích rừng phải chuyển đổi để thực hiện Dự án đều là những diện tích bắt buộc phải chuyển đổi để bảo đảm hiệu quả công trình; theo đánh giá của cơ quan chức năng thì chất lượng các diện rừng phải chuyển đổi đều là rừng nghèo, nghèo kiệt. Do vậy, việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để sớm đưa các dự án này sớm hoàn thành vào hoạt động là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, đối với dự án Hồ chứa nước sông Than cần giải thích rõ thêm về tính tối ưu của việc điều chỉnh, nâng dung tích hồ chứa; đối với hồ chứa nước Bản Mồng cần lưu ý sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thì cần cập nhật báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày báo cáo thẩm tra
Về sự phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH và quy hoạch có liên quan, Chủ nhiệm Ủy ban Phan Xuân Dũng cho biết, dự án Hồ chứa nước Sông Than, dự án hồ chứa nước Bản Mồng cơ bản phù hợp với các quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011- 2020; quy hoạch 03 loại rừng giai đoạn 2016-2025; phù hợp với quy hoạch thủy lợi của các địa phương, của tỉnh, quy hoạch thủy lợi khu vực miền Trung giai đoạn 2012-2020 và định hướng đến năm 2050; phù hợp với Chiến lược phát triển thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Tuy nhiên, đối với dự án Hồ chứa nước Bản Mổng, lưu ý UBND tỉnh Thanh Hóa cần sớm cập nhật thông tin củadDự án vào quy hoạch tỉnh, quy hoạch sử dụng đất huyện Như Xuân giai đoạn 2021- 2030; Kế hoạch sử dụng đất huyện Như Xuân năm 2021 và hoàn thiện đầy đủ hồ sơ trình cấp thẩm quyền thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất để thống nhất, đồng bộ với mục đích sử dụng rừng theo đúng quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về quy hoạch…
Qua thẩm tra, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đưa ra một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Dự án Hồ chứa nước sông Than thuộc dự án đầu tư hạ tầng thiết yếu về thủy lợi cho khu vực thường xuyên bị hạn hán của tỉnh Ninh Thuận. Do thiếu nguồn vốn bố trí, phát sinh tiêu chí dự án quan trọng quốc gia nên thời gian thực hiện dự án kéo dài; trong thực hiện có điều chỉnh về quy mô, công suất công trình nhưng các điều chỉnh này là cần thiết, phù hợp với thực tiễn và nâng cao hiệu quả KT-XH của dự án. Hồ sơ dự án tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
Vì vậy, Ủy ban nhất trí cho rằng, dự án đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIV. Sau khi Quốc hội quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đề nghị UBND tỉnh Ninh Thuận bổ sung kinh phí phát sinh trồng rừng thay thế cho dự án; chỉ đạo thực hiện nghiêm việc trồng rừng thay thế và bảo đảm nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án. Ủy ban đề nghị Quốc hội cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện để bảo đảm tiến độ, sớm đưa dự án vào hoạt động; bảo vệ môi trường và hiệu quả đầu tư ngân sách Nhà nước.
Ủy ban cũng cho rằng, dự án Hồ chứa nước Bản Mồng là dự án đầu tư hạ tầng thiết yếu về thủy lợi cho khu vực phía Tây tỉnh Nghệ An và Nam Thanh Hóa. Hồ sơ dự án trình Quốc hội đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Vì vậy, Ủy ban nhất trí dự án đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIV. Dự án trong quá triển khai thực hiện do thiếu vốn bố trí, do phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia nên thời gian thực hiện phải kéo dài. Do vậy, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan rà soát các dự án đang thực hiện có nội dung liên quan đến chuyển mục đích sử dụng rừng, tránh tình trạng báo cáo chậm, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án và hiệu quả đầu tư. Hiện Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng đã hoàn thành gần 90% khối lượng công việc giai đoạn 1. Do vậy, sau khi được Quốc hội quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, Chính phủ khẩn trương chỉ đạo bảo đảm nguồn lực thực hiện dự án; đẩy nhanh tiến độ thi công để dự án sớm đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả KT-XH; Đề nghị Quốc hội cần giám sát việc thực hiện chuyển mục đích sử dụng rừng để bảo đảm hiệu quả thực hiện dự án./.
Ngọc Bích