Giá trị cốt lõi “Độc lập - Liêm chính - Chuyên nghiệp - Uy tín - Chất lượng” trong Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2030

28/05/2021
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(sav.gov.vn) - Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước (KTNN) đến năm 2030 đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 999/2020/NQ-UBTVQH14 ngày 16/9/2020. Để thực hiện thành công các mục tiêu, nội dung đề ra trong Chiến lược, KTNN cần xây dựng Kế hoạch thực hiện Chiến lược với các hoạt động cụ thể, khoa học, trong đó cần quan tâm đến việc giữ vững giá trị cốt lõi “Độc lập - Liêm chính - Chuyên nghiệp - Uy tín - Chất lượng” - Một nội dung quan trọng trong bốn quan điểm phát triển KTNN đến năm 2030.

Giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2030: “Độc lập - Liêm chính - Chuyên nghiệp - Uy tín - Chất lượng”


Hoạt động của KTNN có những nét đặc thù riêng biệt, do vậy những giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 được xây dựng còn căn cứ vào các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển KTNN, cũng như phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán công.
 
Kế thừa những giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 “Minh Bạch - Chất lượng - Hiệu quả - Không ngừng gia tăng giá trị”

Để tiếp cận với các giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030, trước hết cần đề cập đến giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 "Minh bạch - Chất lượng - Hiệu quả - Không ngừng gia tăng giá trị". Những giá trị cốt lõi này đã dần được hình thành và đúc kết sau nhiều năm xây dựng và phát triển của KTNN, bắt đầu từ Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 thành lập KTNN, đến Luật KTNN đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, đặc biệt là ngày 28/11/2013 địa vị pháp lý của KTNN được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo đó KTNN “là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”. Sứ mệnh là nâng cao năng lực hoạt động, hiệu lực pháp lý, chất lượng và hiệu quả hoạt động của KTNN như một công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong kiểm toán, giám sát quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Giá trị cốt lõi đó đã thể hiện được tầm nhìn chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020, là kim chỉ nam trong tổ chức và hoạt động, là những giá trị quan trọng tham chiếu cho các định hướng lớn của KTNN trong suốt nhiều năm qua, qua đó góp phần thiết thực vào những thành quả mà KTNN đã đạt được, sâu hơn có thể hiểu từng giá trị cốt lõi đó ở một số khía cạnh chính sau:

Minh bạch

Minh bạch là một khái niệm rộng, bao gồm cả công khai, tính bình đẳng trong tiếp cận thông tin, tính tin cậy, nhất quán của thông tin. Trong hoạt động của KTNN, minh bạch là xu thế, tất yếu, phù hợp với đòi hỏi khách quan trong quá trình quản lý, điều hành đất nước. Đặc biệt, với vai trò, vị trí và nhiệm vụ của KTNN, yêu cầu công khai, minh bạch cần phải được coi trọng như một công cụ thúc đẩy sự phát triển xã hội, tạo niềm tin và sự đồng thuận của người dân đối với chủ trương, chính sách, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước. Theo đó, minh bạch hàm ý là minh bạch trong hoạt động của KTNN và minh bạch gắn với công khai kết quả kiểm toán theo quy định của Luật KTNN. 

Trong hoạt động của KTNN: Là việc công khai, minh bạch hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của KTNN. Đây là nguồn thông tin quan trọng cung cấp cho các đơn vị được kiểm toán, các cơ quan quản lý Nhà nước, cho người dân và toàn xã hội nắm bắt để chấp hành quy định pháp luật về kiểm toán cũng như giám sát hoạt động của KTNN. Minh bạch kế hoạch kiểm toán hàng năm: Xét trên phạm vi tổng thể, giai đoạn minh bạch kế hoạch kiểm toán có tác động mạnh mẽ ý thức tôn trọng pháp luật của các đối tượng kiểm toán, tác động đến ý thức tuân thủ luật pháp của đơn vị được kiểm toán. Minh bạch trong quản trị bộ máy: Điều này tạo nề nếp kỷ luật làm việc, tăng cường kiểm soát nội bộ và nâng cao trách nhiệm giải trình của các bộ phận, hình thành các kênh giám sát khách quan, phòng ngừa tiêu cực… có sự tham gia của tất cả các thành viên trong KTNN, từ đó tạo nền tảng cho việc xây dựng một tổ chức gắn kết, vận hành ngày càng hiệu quả và hiệu lực hơn.

Trong hoạt động kiểm toán: Việc minh bạch, công khai được quy định trong Luật KTNN, theo đó công khai, minh bạch yêu cầu KTNN phải nỗ lực công khai kết quả kiểm toán một cách nhanh nhất tới người dân, cải thiện liên tục tính minh bạch trong hoạt động kiểm toán và bảo vệ quyền được tiếp cận thông tin của người dân, qua đó: Góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia minh bạch, bền vững, giúp cho các tổ chức, cá nhân yên tâm, tin tưởng khi thiết lập quan hệ hợp tác, đầu tư ở Việt Nam; giúp các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc ra quyết định, cơ quan công quyền điều chỉnh hành vi quản lý, giám sát nhằm hoạt động có hiệu quả hơn; giúp người dân tham gia giám sát các hoạt động của Chính phủ tốt hơn; góp phần nâng cao ý thức chấp hành quy định pháp luật của các đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan. Xét trên giác độ xã hội, công khai, minh bạch kết quả kiểm toán có tác dụng tôn vinh những điển hình làm tốt và phê phán những hành vi vi phạm. Đây là phương tiện hữu hiệu góp phần tăng cường pháp chế, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đối với xã hội, với quốc gia; các tổ chức, cá nhân trong xã hội có thể sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của KTNN, phản biện kết quả kiểm toán trên nhiều góc độ khác nhau. Điều này thúc đẩy KTNN, Kiểm toán viên nhà nước phải cẩn trọng khi đưa ra các nhận xét, kết luận, kiến nghị của mình trên cơ sở tôn trọng đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo tính trung thực, khách quan của kết quả kiểm toán. Đối mặt với những thách thức đó sẽ tạo áp lực cho KTNN, Kiểm toán viên nhà nước phải cố gắng, nỗ lực để thực hiện nhiệm vụ một cách trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả hơn.
 
Hiệu quả

Hiệu quả là khái niệm để chỉ việc hoàn thành đúng việc và tạo ra nhiều giá trị nhất so với mục tiêu đề ra, phản ánh tỷ lệ giữa kết quả đạt được so với mục tiêu ban đầu. Nguyên tắc về tính hiệu quả là tối đa hóa đầu ra trên cơ sở các nguồn lực được sử dụng tối thiểu hoặc tối thiểu hóa nguồn lực sử dụng để tạo ra cùng sản phẩm đầu ra. Trong hoạt động của KTNN, ngoài việc bao quát được các nguyên tắc nêu trên, tính hiệu quả được tập trung sâu hơn trong hoạt động kiểm toán, đó là: Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại với phương pháp kiểm toán theo thông lệ quốc tế, rút ngắn thời gian kiểm toán, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực trong tổ chức hoạt động; xây dựng phương án tổ chức kiểm toán khoa học, chặt chẽ, nâng cao chất lượng công tác khảo sát lập kế hoạch kiểm toán; phân tích, tổng hợp kết quả kiểm toán; xây dựng quy trình, hồ sơ mẫu biểu kiểm toán theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, cải cách thủ tục hành chính; chuẩn hóa hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán, quy định phân cấp về trách nhiệm của các cấp liên quan đến kết quả, kiến nghị kiểm toán; lựa chọn tiếp thu những phương pháp kiểm toán mới, tiên tiến, hiện đại của các cơ quan kiểm toán tối cao trên thế giới.
 
Không ngừng gia tăng giá trị

Không ngừng gia tăng giá trị là một phương thức tư duy quản lý đột phá so với phương thức quản lý truyền thống được KTNN đặc biệt quan tâm trong tổ chức hoạt động, trong đó: Đối với nội tại cơ quan KTNN, là việc tạo môi trường làm việc để các cá nhân đưa ra những ý tưởng cải tiến, sáng tạo và đổi mới hiệu quả, không ngừng gia tăng giá trị tại từng vị trí việc làm mà cá nhân đảm nhiệm; Đối với bên ngoài, KTNN hướng đến đem lại giá trị hữu ích và thiết thực bằng việc liên tục cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và công chúng, đặc biệt là việc không ngừng gia tăng giá trị của báo cáo kiểm toán theo quy định của Luật KTNN.

Về giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030

Có thể nói, giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 đã thể hiện rõ nét địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp, sứ mệnh trong tổ chức hoạt động đến năm 2020.

Bước sang giai đoạn mới, KTNN đã kế thừa và phát triển sâu sắc thêm những giá trị cốt lõi đó trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 “Độc lập - Liêm chính - Chuyên nghiệp - Uy tín - Chất lượng”. Như vậy, “Chất lượng” là giá trị duy nhất được giữ lại xuyên suốt từ khi KTNN hình thành và phát triển đến nay, vì đây là giá trị thể hiện được mục tiêu rất quan trọng của bất kỳ tổ chức nào muốn hướng đến - Chất lượng sản phẩm, dịch vụ cuối cùng được các bên liên quan sử dụng để quyết định các vấn đề quan trọng theo mong muốn của họ.

Trong các giá trị cốt lõi mới, thoạt nhìn chưa thấy sự tiếp nối và gắn kết với các giá trị cốt lõi trong giai đoạn trước, song trong từng giá trị cốt lõi của Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 đã hàm chứa đầy đủ các giá trị cốt lõi trong giai đoạn trước. Đồng thời, giá trị cốt lõi mới toàn diện hơn, gắn kết và phù hợp với nhau hơn, thể hiện được tầm nhìn chiến lược hướng tới xây dựng KTNN xứng đáng là cơ quan thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công có trách nhiệm, uy tín, chuyên nghiệp và hiện đại; góp phần quan trọng vào sự phát triển ổn định, bền vững, minh bạch nền tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất nước và phòng chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch, bảo vệ pháp luật, sự liêm chính, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
 
Những giá trị cốt lõi trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 có thể được hiểu ở một số khía cạnh chính sau:

Độc lập

Độc lập là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các Cơ quan kiểm toán tối cao (SAI). Theo Tuyên bố Lima (được thông qua tại Đại hội INTOSAI lần thứ 9, năm 1977 tại Lima, Peru) “Các SAI chỉ có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình một cách khách quan và hiệu quả khi có vị trí độc lập với cơ quan được kiểm tra và được bảo vệ trước những ảnh hưởng từ bên ngoài”. Nguyên tắc hoạt động của KTNN là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được đảm bảo bởi địa vị pháp lý quy định trong Hiến pháp và Luật KTNN. Tính độc lập đó đáp ứng đầy đủ 03 yếu tố cấu thành theo đúng nguyên tắc trong Tuyên bố Lima là Độc lập về mặt tổ chức, Độc lập về mặt chuyên môn và Độc lập về mặt tài chính.  

Về mặt tổ chức, trước khi Luật KTNN có hiệu lực, quyền hoạt động độc lập của KTNN đã được xác lập trong Nghị định 93/2003/NĐ-CP: “Khi thực hiện kiểm toán, cơ quan KTNN hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy nhiên, địa vị pháp lý - là cơ quan thuộc Chính phủ nên chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức đã hạn chế đáng kể quyền độc lập của KTNN. Sự độc lập về mặt tổ chức chỉ thực sự được xác lập bởi Luật KTNN lần đầu tiên được ban hành năm 2005 “KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, đặc biệt ngày 28/11/2013 địa vị pháp lý của KTNN được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, với những nội dung về việc tách cơ quan KTNN Việt Nam ra khỏi khối hành pháp, quy định cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi miễn chức danh Tổng KTNN, địa vị pháp lý được hiến định đã khẳng định rõ nét sự độc lập về mặt tổ chức của KTNN.

Về mặt chuyên môn, tính độc lập là những nguyên tắc cơ bản về quyền hạn kiểm toán của KTNN, đảm bảo độc lập trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán, tự chủ trong việc lựa chọn các đơn vị được kiểm toán, lựa chọn những vấn đề cần được ưu tiên, chủ động trong việc ban hành các quy trình, chuẩn mực và áp dụng các phương pháp kiểm toán khi cần thiết, đặc biệt là toàn quyền trong việc lập báo cáo kiểm toán mà không chịu bất kỳ sự can thiệp trái pháp luật nào vào hoạt động kiểm toán. Tính độc lập về chuyên môn được thể hiện nhất quán, bắt buộc đối với Kiểm toán viên nhà nước, đó là: Phải thật sự độc lập, khách quan, không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần khi kiểm toán và đưa ra kết luận, kiến nghị kiểm toán; khi tiến hành kiểm toán, chỉ tuân theo pháp luật, các chuẩn mực, quy trình, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy định khác của KTNN; phải báo cáo với người chịu trách nhiệm quản lý hoạt động kiểm toán về bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài có thể làm ảnh hưởng đến tính khách quan, trung thực trong hoạt động kiểm toán; phải báo cáo người có thẩm quyền để không tham gia kiểm toán ở đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc có quan hệ gia đình mà theo quy định của Luật KTNN không được tham gia kiểm toán; phải kiểm soát bản thân để không dính líu vào những vấn đề mà mình có lợi ích liên quan làm ảnh hưởng đến hoạt động kiểm toán.  

Về mặt tài chính, tính độc lập đó là việc KTNN chủ động lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt kinh phí hoạt động hàng năm, KTNN có quyền tham dự các buổi thảo luận về ngân sách của Quốc hội; trình bày những nhu cầu về mặt tài chính của KTNN trong một số phiên họp của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngoài kinh phí được ngân sách Nhà nước đảm bảo theo quy định, KTNN còn được bổ sung nguồn kinh phí hoạt động một phần từ nguồn KTNN phát hiện và kiến nghị được các đơn vị kiểm toán thực nộp vào ngân sách Nhà nước nhằm khuyến khích, thưởng cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường năng lực hoạt động của KTNN, đảm bảo kinh phí cần thiết để KTNN có thể thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
 
Liêm chính

Liêm chính dưới góc độ tổ chức là việc tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực chung của tổ chức, dưới góc độ cá nhân là trong sạch và ngay thẳng. Hầu hết các cơ quan công quyền đều ban hành quy định về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức trong thực tiễn hoạt động. KTNN cũng ban hành Hệ thống chuẩn mực, trong đó có riêng một chuẩn mực quy định về hướng dẫn đạo đức và quy tắc ứng xử của Kiểm toán viên nhà nước. Những quy định về đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên nhà nước được xây dựng phù hợp với các quy định, yêu cầu chung về đạo đức của công chức Nhà nước và đặc thù nghề nghiệp kiểm toán. Đặc biệt, tính liêm chính được nhấn mạnh trên cơ sở Tuyên bố Lima về hướng dẫn các nguyên tắc kiểm toán, bộ quy tắc đạo đức của Tổ chức quốc tế Các cơ quan Kiểm toán tối cao. Những quy định về đạo đức nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho các chuẩn mực kiểm toán khác trong Hệ thống chuẩn mực KTNN. Theo đó, tính liêm chính có nghĩa là không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để đạt được bất kỳ lợi ích cá nhân hoặc nhóm nào trong các hoạt động công chức, công vụ.

Trong hoạt động kiểm toán, tính liêm chính có nghĩa là sự cảnh giác, tự nhìn nhận bản thân và tự tuân theo kỷ luật, kỷ cương: Kiểm toán viên nhà nước phải công minh, chính trực, thẳng thắn, trung thực để có chính kiến rõ ràng; công bằng, tôn trọng sự thật, không thành kiến và thiên vị; Coi trọng cả hình thức, nội dung của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và các chuẩn mực kiểm toán khác; coi trọng các nguyên tắc về độc lập khách quan và chuyên nghiệp; coi trọng sự quan tâm của công chúng khi đưa ra các quyết định; phải trung thực tuyệt đối khi thực hiện nhiệm vụ cũng như trong quản lý các nguồn lực của KTNN; Không được nhận tiền, quà biếu và tránh các quan hệ xã hội có thể dẫn đến việc phải nhân nhượng trong kiểm toán; Phải xem xét tất cả các yếu tố liên quan, trọng yếu để đảm bảo báo cáo kiểm toán có đầy đủ các thông tin quan trọng và cần thiết, tất cả các bằng chứng được thu thập, các ý kiến xác nhận, đánh giá, kiến nghị kiểm toán phải khách quan và truyền đạt một cách trung thực; Thẳng thắn khi đưa ra các kết luận và kiến nghị về nội dung kiểm toán; phải bảo vệ ý kiến của mình dựa trên các bằng chứng kiểm toán và những lập luận đúng đắn mà không chịu tác động bởi sự can thiệp từ bên ngoài.Có thái độ cư xử đúng mực, không được có hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đơn vị được kiểm toán.
 
Chuyên nghiệp

Chuyên nghiệp thể hiện ở việc tuân thủ tuyệt đối các kế hoạch, chuẩn mực, quy trình và quy tắc nghề nghiệp chặt chẽ; Kiểm toán viên nhà nước phải có trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn cao hơn trình độ của những người được kiểm tra; thận trọng cao hơn mức cần thiết khi đưa ra các kết luận, kiến nghị kiểm toán; phải luôn chuyên tâm với công việc, thường xuyên trau dồi sự hiểu biết, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp; độc lập, tự chủ và có tinh thần hợp tác trong công việc; chấp hành sự phân công, giao nhiệm vụ, sự kiểm tra, kiểm soát của cấp trên; giữ bí mật Nhà nước, bí mật nghề nghiệp của đơn vị được kiểm toán, kết quả kiểm toán khi chưa được công bố chính thức; làm việc khoa học, bài bản, theo chuẩn mực, quy trình, giải quyết công việc đúng tiến độ, đúng hẹn.
 
Uy tín

Uy tín thể hiện ở những kết quả được hình thành từ những hành vi mẫu mực, chuyên nghiệp, tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc, chuẩn mực, quy trình, phù hợp với sứ mệnh của KTNN, đem lại sự tin tưởng chắc chắn cho người sử dụng thông tin, thỏa mãn được nhu cầu và nguyện vọng của nhiều tầng lớp nhân dân về kết quả hoạt động của KTNN. Uy tín là giá trị rất quan trọng, được xây dựng trong suốt quá trình hình thành và phát triển của KTNN, là điều kiện cần thiết cho sự sáng tạo, lan tỏa, dám nghĩ, dám làm ở mọi cấp quản lý trong quá trình thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao.
 
Chất lượng

Đối với KTNN, chất lượng là văn hóa nội bộ, được yêu cầu tất cả công chức, viên chức, Kiểm toán viên nhà nước đảm bảo tuân thủ khi thực hiện nhiệm vụ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chất lượng trong hoạt động của KTNN là mức độ thoả mãn của các đối tượng sử dụng thông tin, kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy kết quả kiểm toán, đồng thời thoả mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những kết luận, kiến nghị của KTNN trên cả ba mặt năng lực, hiệu lực và hiệu quả. Chất lượng kiểm toán được bảo đảm thông qua việc kiểm toán viên nhà nước kết luận và kiến nghị kiểm toán phải dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và cơ sở pháp lý thuyết phục. KTNN phải duy trì liên tục hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán để quản lý rủi ro, đảm bảo chất lượng hoạt động kiểm toán và không ngừng nâng cao độ tin cậy, uy tín của KTNN.
 
Như vậy, Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành tại Nghị quyết số 999/2020/UBTVQH14 ngày 16/9/2020 không những có ý nghĩa quan trọng và cấp bách trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu lực hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho KTNN hoạch định các kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm, khắc phục những bất cập và hoàn thành tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được Ðảng, Nhà nước giao. Một trong bốn quan điểm lớn phát triển KTNN trong Chiến lược được xác định đó là phải giữ vững giá trị cốt lõi “Độc lập - Liêm chính - Chuyên nghiệp - Uy tín - Chất lượng”. Việc nhìn nhận, đánh giá và lan tỏa các giá trị cốt lõi này một cách đầy đủ, toàn diện trong quá trình xây dựng Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 sẽ tạo được sự đồng thuận lớn trong mọi hoạt động của KTNN, qua đó góp phần quan trọng để KTNN thực hiện tốt các mục tiêu Chiến lược, xây dựng và phát triển cơ quan KTNN xứng đáng là công cụ trọng yếu, hữu hiệu của Đảng, Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công./.
 
TS. Nguyễn Quán Hải - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế

Xem thêm »