09/09/2021
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững(sav.gov.vn) - Trên cương vị Chủ tịch Tổ chức các Cơ quan kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) nhiệm kỳ 2018 - 2021, Kiểm toán nhà nước (KTNN) Việt Nam đã luôn nỗ lực ưu tiên nguồn lực cần thiết để thực hiện thắng lợi Tuyên bố Hà Nội và Chương trình hành động Thực hiện vai trò Chủ tịch ASOSAI giai đoạn 2018 – 2021. Việc triển khai Cuộc kiểm toán hợp tác với chủ đề Kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững là một trong những kết quả quan trọng minh chứng cho những nỗ lực của ASOSAI nói chung và KTNN Việt Nam nói riêng trong việc phát triển, chia sẻ kiến thức, hợp tác nâng cao năng lực thực hiện Kiểm toán môi trường vì sự phát triển bền vững như các cam kết đã đưa ra.Kiểm toán việc quản lý nguồn nước gắn với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
Cuộc kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững được thực hiện trong bối cảnh các quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công đã và đang phải đối mặt với những thách thức, tác động tiêu cực không thể lường trước từ hiện tượng biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường cũng như việc quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước thiếu bền vững, có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hơn 65 triệu người dân trong lưu vực.
Với nỗ lực thực hiện thành công Tuyên bố Hà Nội tại Đại hội Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) lần thứ 14 được tổ chức tại Hà Nội; đồng thời nhận thức sâu sắc tình trạng nước biển dâng cao, xâm nhập mặn và chất lượng nguồn nước đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến lưu vực sông Mê Công nói chung và khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam nói riêng, KTNN đã tích cực nghiên cứu, trình Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ chủ trương cho phép KTNN chủ trì thực hiện cuộc kiểm toán hợp tác với chủ đề Kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Đề xuất của KTNN Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các Cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) trong khu vực.
Cuộc kiểm toán có sự tham gia của KTNN tại 3/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công gồm KTNN Việt Nam, Thái Lan và Myanma, cùng sự hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật của các chuyên gia đến từ KTNN Malaysia, Indonesia, Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Kiểm toán và Trách nhiệm giải trình Canada (CAAF) trong suốt quá trình kiểm toán từ khâu lập kế hoạch, thực hiện và lập báo cáo kiểm toán.
Cuộc kiểm toán do KTNN Việt Nam triển khai tại 4 Bộ, ngành Trung ương gồm Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và 12 tỉnh, thành phố thuộc lưu vực sông Mê Công gồm: An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh, Cà Mau, Hậu Giang, Bến Tre, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk từ ngày 03/3/2021 đến ngày 29/4/2021. Mục tiêu cuộc kiểm toán nhằm đánh giá công tác quản lý tài nguyên nước và việc tuân thủ các cam kết quốc tế của Chính phủ Việt Nam trong quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mê Công, gắn với việc thực hiện Mục tiêu cụ thể 6.5 thuộc Mục tiêu phát triển bền vững số 6: “Đến năm 2030, thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông, bao gồm cả nguồn nước xuyên biên giới thông qua hợp tác quốc tế”, đồng thời chú trọng đến việc xem xét, xác định các ảnh hưởng, tác động tiêu cực do việc suy giảm nguồn nước sông Mê Công tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020.
Các Bộ, Ngành, địa phương thực hiện đầy đủ, nghiêm túc cam kết quốc tế về sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công
Qua kiểm toán cho thấy trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm, chú trọng và có nhiều nỗ lực trong việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công, gắn với việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững. Căn cứ nhiệm vụ được giao theo Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự PTBV của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động xây dựng Kế hoạch chi tiết cho từng Mục tiêu, trong đó có Mục tiêu cụ thể số 6.5 về quản lý tổng hợp nguồn nước lưu vực sông, làm cơ sở tổ chức, triển khai xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Cuộc kiểm toán đã ghi nhận những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện như: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước như Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường cho đến các Nghị định, Thông tư hướng dẫn đã được xây dựng, ban hành tương đối đầy đủ và cụ thể; mạng lưới quan trắc, giám sát tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước chất lượng nguồn nước đã và đang từng bước được đầu tư, hoàn thiện; hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát về tài nguyên nước, bảo vệ môi trường nước được tổ chức định kỳ, qua đó đã phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm; tổng nguồn lực tài chính đã sử dụng cho công tác quản lý tài nguyên nước tại các đơn vị được kiểm toán khoảng 42.542 tỷ đồng và ngày càng gia tăng để phục vụ cho các hoạt động điều tra cơ bản, dự báo, đánh giá tài nguyên nước, xây dựng các hệ thống công trình thủy lợi, cấp thoát nước, phòng chống xâm nhập mặn.
Về hợp tác quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công, đặc biệt là Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995 (Hiệp định Mê Công 1995), các Thủ tục Trao đổi và Chia sẻ thông tin số liệu; Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận; Giám sát sử dụng nước; Duy trì dòng chảy trên dòng chính; và Chất lượng nước; cùng nhiều hoạt động khác trong khuôn khổ của Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC) như: Tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản pháp lý, chiến lược của MRC; tham gia đầy đủ các hội nghị, phiên họp của MRC và đưa ra những kiến nghị thiết thực, hữu ích về việc sử dụng tài nguyên nước công bằng và hợp lý; cử các cán bộ, chuyên gia về tài nguyên nước tham gia các hoạt động của MRC; tăng cường hợp tác song phương, đa phương như đảm bảo điều hòa dòng chảy và duy trì lưu lượng tối thiểu sông Sê San – Srêpôk sang Campuchia, ký kết biên bản ghi nhớ giữa tỉnh An Giang của Việt Nam và 2 tỉnh Kandal, Takeo của Campuchia về quản lý, giám sát chất lượng nước, các nguồn thải và đa dạng sinh học trên lưu vực sông Mê Công; xây dựng Kế hoạch và bố trí kinh phí để thực hiện Chiến lược Phát triển Hạ lưu vực sông Mê Công giai đoạn 2016 - 2020 do MRC xây dựng.
Bất cập quản lý tài nguyên nước
Bên cạnh những kết quả đạt được, cuộc kiểm toán cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công giai đoạn 2016 – 2020 như công tác quy hoạch tài nguyên nước chung cả nước, quy hoạch tài nguyên nước của lưu vực sông, nguồn nước liên tỉnh, nội tỉnh chưa kịp thời; một số nhiệm vụ điều tra cơ bản tài nguyên nước chưa cung cấp các thông tin, số liệu đầy đủ phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước và Mục tiêu phát triển bền vững; công tác giám sát, kiểm soát hoạt của cơ quan quản lý còn thiếu sự đồng bộ, chưa đảm bảo kết nối từ Trung ương đến địa phương.
Mục tiêu cuộc kiểm toán nhằm đánh giá công tác quản lý tài nguyên nước và việc tuân thủ các cam kết quốc tế của Chính phủ Việt Nam trong quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mê Công
Bên cạnh đó, công tác thẩm định, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước giai đoạn 2016-2020 chưa đảm bảo theo quy định của Luật TNN 2012 và Luật BVMT 2014.
Tình trạng xả nước thải vào nguồn nước đã có dấu hiệu ô nhiễm còn diễn ra, tuy nhiên chưa có sự thống nhất giữa các đơn vị về biện pháp xử lý, giảm thiểu tác động trong quá trình thẩm định, cấp phép.
Công tác thẩm định, cấp giấy phép khai thác khoáng sản lòng sông tại một số địa phương chưa xem xét kỹ lưỡng đến khoảng cách tối thiểu so với đường bờ, phạm vi bảo vệ bờ sông; chưa rà soát, tính toán kỹ lưỡng trữ lượng mỏ, công suất, thời gian khai thác; chưa thực hiện cải tạo phục hồi môi trường, gia cố đường bờ sạt lở sau khai thác; việc quản lý, giám sát khoáng sản tận thu trong quá trình xây dựng thủy điện tại lưu vực sông Mê Công chưa chặt chẽ.
Ngoài ra, KTNN cũng xem xét và phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai Hiệp định Mê Công 1995 cần phải được các quốc gia trong lưu vực xem xét, nghiên cứu khắc phục, cải thiện nhằm tăng cường hiệu quả hợp tác trong tương lai. Kết quả kiểm toán chỉ rõ: Hiện nay mới có 4/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công ký kết Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995. Văn bản pháp lý (quy chế, sổ tay hướng dẫn, hướng dẫn kỹ thuật…) làm cơ sở điều tiết các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên dòng chính và dòng nhánh (như xây dựng thủy điện, hoạt động chuyển nước…) chưa đầy đủ, trong khi các hoạt động phát triển thủy điện dòng nhánh tại các quốc gia thành viên MRC ngày càng nhiều hơn.
Các điều khoản cụ thể để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên MRC trong việc sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công chưa đầy đủ; thiếu chỉ tiêu, hoạt động liên quan đến đánh giá tác động môi trường và phát triển bền vững quốc tế về quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông.
Bên cạnh đó, một số thủ tục, các văn bản pháp lý, các Chiến lược toàn lưu vực và các hướng dẫn kỹ thuật của MRC được xây dựng với nội dung khái quát, chưa có sự ràng buộc đầy đủ; một số hướng dẫn kỹ thuật nhằm hỗ trợ thực hiện các Thủ tục và các chương trình hợp tác đã được xây dựng nhưng chưa được thông qua như Hướng dẫn đánh giá danh mục các dự án thủy điện đa mục tiêu (năm 2015), Hướng dẫn kỹ thuật thực hiện Thủ tục Duy trì dòng chảy trên dòng chính (năm 2016), Hướng dẫn Kỹ thuật đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới ở vùng Hạ LVS Mê Công (năm 2018)…
Việc thực hiện 05 Thủ tục của MRC, như: Thủ tục Trao đổi và Chia sẻ thông tin, số liệu; Thủ tục Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận; Thủ tục Duy trì dòng chảy trên Dòng chính; Thủ tục Giám sát sử dụng nước; Thủ tục Chất lượng nước còn một số vấn đề như: các thông tin, số liệu về khí tượng thủy văn, phù sa, bùn cát… chưa thực sự đồng bộ và được cập nhật thường xuyên. Việc giám sát sử dụng nước chưa được triển khai toàn diện do hạn chế về nguồn lực; việc thực hiện tham vấn đối với các dự án khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên dòng chính còn gặp một số vướng mắc nhất định trong việc đánh giá đầy đủ các tác động của dự án tới các bên liên quan, đặc biệt là đối với khu vực hạ nguồn sông Mê Công…
Trong khi đó, 04 quốc gia thành viên MRC, chỉ có Việt Nam tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc UNWC/1997 về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế cho các mục đích phi giao thông thủy 1997, gây khó khăn trong việc tìm kiếm các căn cứ tham chiếu chung khi xử lý vấn đề khác biệt hoặc yêu cầu sự can thiệp của Tòa án Công lý quốc tế.
Những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tài nguyên nước nói trên kết hợp với các yếu tố biến đổi khí hậu, sự gia tăng của việc khai thác, sử dụng nước tại các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông Mê Công dẫn đến những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới Việt Nam, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – là nơi sinh sống của hơn 17,3 triệu dân, cung cấp trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản, 70% sản lượng trái cây của cả nước. Cụ thể: số lượng nước sông Mê Công từ thượng nguồn về ĐBSCL năm 2020 giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011, cùng với đó lượng phù sa bùn cát năm 2020 cũng giảm tương ứng 14 triệu tấn so với năm 2017 (37%); Số lượng nước năm 2020 giảm 22 tỷ m3 so với năm 2019 (giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011); tình trạng xâm nhập mặn gây thiệt hại đến khoảng 509.804 ha diện tích cây trồng, 486.000 hộ bị thiếu nước sinh hoạt; 1.509.528ha đất bị suy thoái chất lượng do giảm độ phì; 2.158 vụ sạt lở thiệt hại ước tính 1.078,9 tỷ đồng; trữ lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên sụt giảm 12.644 tấn ước tính 770 tỷ đồng; chất lượng nước tại nhiều con sông, kênh, rạch đều ghi nhận tình trạng ô nhiễm là nguyên nhân dẫn đến 84.672 ca bệnh theo thống kê của ngành y tế trong giai đoạn 2016 - 2020; nhiều địa phương phản ánh sự suy giảm về số loài và số lượng cá thể nhiều loại sinh vật, thủy sản đặc trưng của sông Mê Công; đồng thời cũng góp phần dẫn đến tình trạng hàng trăm ngàn lao động phải di dời khỏi địa phương, rời bỏ các công việc truyền thống để tìm kiếm việc làm tại các thành phố, đô thị lớn.
Trên cơ sở kết quả kiểm toán, KTNN đã kiến nghị Ủy ban sông Mê Công Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Mê Công 1995 nghiên cứu, trao đổi, tham mưu cho Thủ tướng Chính Phủ đề xuất MRC xây dựng các văn bản/hướng dẫn kỹ thuật về giám sát sử dụng nước (bao gồm chuyển nước) trên dòng nhánh; duy trì dòng chảy tối thiểu (trên dòng chính và dòng nhánh sông Mê Công); đồng thời đề xuất xây dựng các điều khoản, chế tài cụ thể để giải quyết tranh chấp đối với các bất đồng giữa các quốc gia thành viên trong việc quản lý và sử dụng nước lưu vực sông Mê Công. Đồng thời thúc đẩy MRC thực hiện chuyển giao các hệ thống quan trắc (thủy sản, sức khỏe hệ sinh thái, phù sa bùn cát…) và các quốc gia thành viên đưa vào vận hành hiệu quả các hệ thống này, nhằm đảm bảo cơ sở dữ liệu cho quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên toàn lưu vực sông Mê Công.
Đồng thời kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương ban hành, sửa đổi cơ chế, chính sách theo thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nguồn nước và bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững đến 2030 ở mỗi quốc gia thành viên Liên hiệp quốc, trong đó có Việt Nam./.
Phương Ngọc
(sav.gov.vn) - Trên cương vị Chủ tịch Tổ chức các Cơ quan kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) nhiệm kỳ 2018 - 2021, Kiểm toán nhà nước (KTNN) Việt Nam đã luôn nỗ lực ưu tiên nguồn lực cần thiết để thực hiện thắng lợi Tuyên bố Hà Nội và Chương trình hành động Thực hiện vai trò Chủ tịch ASOSAI giai đoạn 2018 – 2021. Việc triển khai Cuộc kiểm toán hợp tác với chủ đề Kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững là một trong những kết quả quan trọng minh chứng cho những nỗ lực của ASOSAI nói chung và KTNN Việt Nam nói riêng trong việc phát triển, chia sẻ kiến thức, hợp tác nâng cao năng lực thực hiện Kiểm toán môi trường vì sự phát triển bền vững như các cam kết đã đưa ra.
Đoàn kiểm toán thực hiện kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công
Kiểm toán việc quản lý nguồn nước gắn với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
Cuộc kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững được thực hiện trong bối cảnh các quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công đã và đang phải đối mặt với những thách thức, tác động tiêu cực không thể lường trước từ hiện tượng biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường cũng như việc quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước thiếu bền vững, có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hơn 65 triệu người dân trong lưu vực.
Với nỗ lực thực hiện thành công Tuyên bố Hà Nội tại Đại hội Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) lần thứ 14 được tổ chức tại Hà Nội; đồng thời nhận thức sâu sắc tình trạng nước biển dâng cao, xâm nhập mặn và chất lượng nguồn nước đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến lưu vực sông Mê Công nói chung và khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam nói riêng, KTNN đã tích cực nghiên cứu, trình Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ chủ trương cho phép KTNN chủ trì thực hiện cuộc kiểm toán hợp tác với chủ đề Kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Đề xuất của KTNN Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các Cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) trong khu vực.
Cuộc kiểm toán có sự tham gia của KTNN tại 3/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công gồm KTNN Việt Nam, Thái Lan và Myanma, cùng sự hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật của các chuyên gia đến từ KTNN Malaysia, Indonesia, Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Kiểm toán và Trách nhiệm giải trình Canada (CAAF) trong suốt quá trình kiểm toán từ khâu lập kế hoạch, thực hiện và lập báo cáo kiểm toán.
Cuộc kiểm toán do KTNN Việt Nam triển khai tại 4 Bộ, ngành Trung ương gồm Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và 12 tỉnh, thành phố thuộc lưu vực sông Mê Công gồm: An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh, Cà Mau, Hậu Giang, Bến Tre, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk từ ngày 03/3/2021 đến ngày 29/4/2021. Mục tiêu cuộc kiểm toán nhằm đánh giá công tác quản lý tài nguyên nước và việc tuân thủ các cam kết quốc tế của Chính phủ Việt Nam trong quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mê Công, gắn với việc thực hiện Mục tiêu cụ thể 6.5 thuộc Mục tiêu phát triển bền vững số 6: “Đến năm 2030, thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông, bao gồm cả nguồn nước xuyên biên giới thông qua hợp tác quốc tế”, đồng thời chú trọng đến việc xem xét, xác định các ảnh hưởng, tác động tiêu cực do việc suy giảm nguồn nước sông Mê Công tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020.
Các Bộ, Ngành, địa phương thực hiện đầy đủ, nghiêm túc cam kết quốc tế về sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công
Qua kiểm toán cho thấy trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm, chú trọng và có nhiều nỗ lực trong việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công, gắn với việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững. Căn cứ nhiệm vụ được giao theo Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự PTBV của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động xây dựng Kế hoạch chi tiết cho từng Mục tiêu, trong đó có Mục tiêu cụ thể số 6.5 về quản lý tổng hợp nguồn nước lưu vực sông, làm cơ sở tổ chức, triển khai xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Cuộc kiểm toán đã ghi nhận những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện như: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước như Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường cho đến các Nghị định, Thông tư hướng dẫn đã được xây dựng, ban hành tương đối đầy đủ và cụ thể; mạng lưới quan trắc, giám sát tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước chất lượng nguồn nước đã và đang từng bước được đầu tư, hoàn thiện; hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát về tài nguyên nước, bảo vệ môi trường nước được tổ chức định kỳ, qua đó đã phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm; tổng nguồn lực tài chính đã sử dụng cho công tác quản lý tài nguyên nước tại các đơn vị được kiểm toán khoảng 42.542 tỷ đồng và ngày càng gia tăng để phục vụ cho các hoạt động điều tra cơ bản, dự báo, đánh giá tài nguyên nước, xây dựng các hệ thống công trình thủy lợi, cấp thoát nước, phòng chống xâm nhập mặn.
Về hợp tác quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công, đặc biệt là Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995 (Hiệp định Mê Công 1995), các Thủ tục Trao đổi và Chia sẻ thông tin số liệu; Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận; Giám sát sử dụng nước; Duy trì dòng chảy trên dòng chính; và Chất lượng nước; cùng nhiều hoạt động khác trong khuôn khổ của Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC) như: Tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản pháp lý, chiến lược của MRC; tham gia đầy đủ các hội nghị, phiên họp của MRC và đưa ra những kiến nghị thiết thực, hữu ích về việc sử dụng tài nguyên nước công bằng và hợp lý; cử các cán bộ, chuyên gia về tài nguyên nước tham gia các hoạt động của MRC; tăng cường hợp tác song phương, đa phương như đảm bảo điều hòa dòng chảy và duy trì lưu lượng tối thiểu sông Sê San – Srêpôk sang Campuchia, ký kết biên bản ghi nhớ giữa tỉnh An Giang của Việt Nam và 2 tỉnh Kandal, Takeo của Campuchia về quản lý, giám sát chất lượng nước, các nguồn thải và đa dạng sinh học trên lưu vực sông Mê Công; xây dựng Kế hoạch và bố trí kinh phí để thực hiện Chiến lược Phát triển Hạ lưu vực sông Mê Công giai đoạn 2016 - 2020 do MRC xây dựng.
Bất cập quản lý tài nguyên nước
Bên cạnh những kết quả đạt được, cuộc kiểm toán cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công giai đoạn 2016 – 2020 như công tác quy hoạch tài nguyên nước chung cả nước, quy hoạch tài nguyên nước của lưu vực sông, nguồn nước liên tỉnh, nội tỉnh chưa kịp thời; một số nhiệm vụ điều tra cơ bản tài nguyên nước chưa cung cấp các thông tin, số liệu đầy đủ phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước và Mục tiêu phát triển bền vững; công tác giám sát, kiểm soát hoạt của cơ quan quản lý còn thiếu sự đồng bộ, chưa đảm bảo kết nối từ Trung ương đến địa phương.
Bên cạnh đó, công tác thẩm định, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước giai đoạn 2016-2020 chưa đảm bảo theo quy định của Luật TNN 2012 và Luật BVMT 2014.
Tình trạng xả nước thải vào nguồn nước đã có dấu hiệu ô nhiễm còn diễn ra, tuy nhiên chưa có sự thống nhất giữa các đơn vị về biện pháp xử lý, giảm thiểu tác động trong quá trình thẩm định, cấp phép.
Công tác thẩm định, cấp giấy phép khai thác khoáng sản lòng sông tại một số địa phương chưa xem xét kỹ lưỡng đến khoảng cách tối thiểu so với đường bờ, phạm vi bảo vệ bờ sông; chưa rà soát, tính toán kỹ lưỡng trữ lượng mỏ, công suất, thời gian khai thác; chưa thực hiện cải tạo phục hồi môi trường, gia cố đường bờ sạt lở sau khai thác; việc quản lý, giám sát khoáng sản tận thu trong quá trình xây dựng thủy điện tại lưu vực sông Mê Công chưa chặt chẽ.
Ngoài ra, KTNN cũng xem xét và phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai Hiệp định Mê Công 1995 cần phải được các quốc gia trong lưu vực xem xét, nghiên cứu khắc phục, cải thiện nhằm tăng cường hiệu quả hợp tác trong tương lai. Kết quả kiểm toán chỉ rõ: Hiện nay mới có 4/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công ký kết Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995. Văn bản pháp lý (quy chế, sổ tay hướng dẫn, hướng dẫn kỹ thuật…) làm cơ sở điều tiết các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên dòng chính và dòng nhánh (như xây dựng thủy điện, hoạt động chuyển nước…) chưa đầy đủ, trong khi các hoạt động phát triển thủy điện dòng nhánh tại các quốc gia thành viên MRC ngày càng nhiều hơn.
Các điều khoản cụ thể để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên MRC trong việc sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công chưa đầy đủ; thiếu chỉ tiêu, hoạt động liên quan đến đánh giá tác động môi trường và phát triển bền vững quốc tế về quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông.
Bên cạnh đó, một số thủ tục, các văn bản pháp lý, các Chiến lược toàn lưu vực và các hướng dẫn kỹ thuật của MRC được xây dựng với nội dung khái quát, chưa có sự ràng buộc đầy đủ; một số hướng dẫn kỹ thuật nhằm hỗ trợ thực hiện các Thủ tục và các chương trình hợp tác đã được xây dựng nhưng chưa được thông qua như Hướng dẫn đánh giá danh mục các dự án thủy điện đa mục tiêu (năm 2015), Hướng dẫn kỹ thuật thực hiện Thủ tục Duy trì dòng chảy trên dòng chính (năm 2016), Hướng dẫn Kỹ thuật đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới ở vùng Hạ LVS Mê Công (năm 2018)…
Việc thực hiện 05 Thủ tục của MRC, như: Thủ tục Trao đổi và Chia sẻ thông tin, số liệu; Thủ tục Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận; Thủ tục Duy trì dòng chảy trên Dòng chính; Thủ tục Giám sát sử dụng nước; Thủ tục Chất lượng nước còn một số vấn đề như: các thông tin, số liệu về khí tượng thủy văn, phù sa, bùn cát… chưa thực sự đồng bộ và được cập nhật thường xuyên. Việc giám sát sử dụng nước chưa được triển khai toàn diện do hạn chế về nguồn lực; việc thực hiện tham vấn đối với các dự án khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên dòng chính còn gặp một số vướng mắc nhất định trong việc đánh giá đầy đủ các tác động của dự án tới các bên liên quan, đặc biệt là đối với khu vực hạ nguồn sông Mê Công…
Trong khi đó, 04 quốc gia thành viên MRC, chỉ có Việt Nam tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc UNWC/1997 về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế cho các mục đích phi giao thông thủy 1997, gây khó khăn trong việc tìm kiếm các căn cứ tham chiếu chung khi xử lý vấn đề khác biệt hoặc yêu cầu sự can thiệp của Tòa án Công lý quốc tế.
Những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tài nguyên nước nói trên kết hợp với các yếu tố biến đổi khí hậu, sự gia tăng của việc khai thác, sử dụng nước tại các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông Mê Công dẫn đến những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới Việt Nam, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – là nơi sinh sống của hơn 17,3 triệu dân, cung cấp trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản, 70% sản lượng trái cây của cả nước. Cụ thể: số lượng nước sông Mê Công từ thượng nguồn về ĐBSCL năm 2020 giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011, cùng với đó lượng phù sa bùn cát năm 2020 cũng giảm tương ứng 14 triệu tấn so với năm 2017 (37%); Số lượng nước năm 2020 giảm 22 tỷ m3 so với năm 2019 (giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011); tình trạng xâm nhập mặn gây thiệt hại đến khoảng 509.804 ha diện tích cây trồng, 486.000 hộ bị thiếu nước sinh hoạt; 1.509.528ha đất bị suy thoái chất lượng do giảm độ phì; 2.158 vụ sạt lở thiệt hại ước tính 1.078,9 tỷ đồng; trữ lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên sụt giảm 12.644 tấn ước tính 770 tỷ đồng; chất lượng nước tại nhiều con sông, kênh, rạch đều ghi nhận tình trạng ô nhiễm là nguyên nhân dẫn đến 84.672 ca bệnh theo thống kê của ngành y tế trong giai đoạn 2016 - 2020; nhiều địa phương phản ánh sự suy giảm về số loài và số lượng cá thể nhiều loại sinh vật, thủy sản đặc trưng của sông Mê Công; đồng thời cũng góp phần dẫn đến tình trạng hàng trăm ngàn lao động phải di dời khỏi địa phương, rời bỏ các công việc truyền thống để tìm kiếm việc làm tại các thành phố, đô thị lớn.
Trên cơ sở kết quả kiểm toán, KTNN đã kiến nghị Ủy ban sông Mê Công Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Mê Công 1995 nghiên cứu, trao đổi, tham mưu cho Thủ tướng Chính Phủ đề xuất MRC xây dựng các văn bản/hướng dẫn kỹ thuật về giám sát sử dụng nước (bao gồm chuyển nước) trên dòng nhánh; duy trì dòng chảy tối thiểu (trên dòng chính và dòng nhánh sông Mê Công); đồng thời đề xuất xây dựng các điều khoản, chế tài cụ thể để giải quyết tranh chấp đối với các bất đồng giữa các quốc gia thành viên trong việc quản lý và sử dụng nước lưu vực sông Mê Công. Đồng thời thúc đẩy MRC thực hiện chuyển giao các hệ thống quan trắc (thủy sản, sức khỏe hệ sinh thái, phù sa bùn cát…) và các quốc gia thành viên đưa vào vận hành hiệu quả các hệ thống này, nhằm đảm bảo cơ sở dữ liệu cho quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên toàn lưu vực sông Mê Công.
Đồng thời kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương ban hành, sửa đổi cơ chế, chính sách theo thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nguồn nước và bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững đến 2030 ở mỗi quốc gia thành viên Liên hiệp quốc, trong đó có Việt Nam./.
Phương Ngọc