Quốc hội thảo luận hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, dự kiến năm 2022

08/11/2021
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(sav.gov.vn) - Ngày 08/11/2021, mở đầu đợt họp thứ 2 của Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội thảo luận hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, dự kiến năm 2022.

Đại biểu Trần Thị Thanh Hương - Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang

Tại phiên họp, Quốc hội thảo luận: Báo cáo về công tác phòng, chống dịch COVID-19 và tình hình thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 về Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV; tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2021, dự toán NSNN, phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2022 và Kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm 2022-2024, trong đó có việc bổ sung dự toán thu, chi vốn viện trợ nước ngoài năm 2021 của tỉnh Quảng Nam; lùi thời điểm cải cách chính sách tiền lương.

Trong quá trình Quốc hội thảo luận, thành viên Chính phủ phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.

Cần có giải pháp tổng thể phục hồi, phát triển kinh tế sau đại dịch Covid-19

Liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đại biểu Trần Thị Thanh Hương - Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang cho rằng, ngành nông nghiệp đã và đang tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn, đặc biệt là những tác động của đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, càng lộ rõ những hạn chế, bất cập cần quan tâm trong lĩnh vực này. Nông dân đồng bằng sông Cửu Long luôn phải đối mặt với một nền nông nghiệp bất ổn. Mặt khác, đất đai hiện nay manh mún, phân tán gây ra nhiều hạn chế, bất cập trong sản xuất nông nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Đại biểu Trần Thị Thanh Hương cho rằng, việc sớm sửa đổi Luật Đất đai nhằm tạo điều kiện cho người nông dân, các tổ chức dần hình thành những đơn vị sản xuất có quy mô lớn, đồng thời tăng cường liên kết thông qua các tổ hợp tác, hợp tác xã, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giá trị trong sản xuất nông nghiệp là nguyện vọng của cử tri hiện nay. 

Đại biểu cho rằng đa phần sản phẩm nông nghiệp chỉ mới đáp ứng được thị trường "dễ tính". Bên cạnh việc nông dân có thói quen làm ăn theo phong trào, không ký kết hợp đồng với doanh nghiệp, mặt khác, từ khâu chọn giống, sản xuất, chế biến, bảo quản đến khâu tiêu thụ đều chưa được thực hiện một cách đồng bộ. Chính vì vậy, giá cả và chất lượng sản phẩm nông nghiệp của chúng ta chưa có tính cạnh tranh cao trên thị trường khu vực cũng như trên thế giới gặp nhiều thách thức. Đại biểu đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có chiến lược tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để triển khai xây dựng những mô hình mới, kết nối cung cầu, tăng cường liên kết vùng một cách hiệu quả hơn, xây dựng chuỗi cung ứng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp một cách chính quy, chuyên nghiệp hơn nữa để vừa cung cấp sản phẩm tốt, đảm bảo chất lượng, nguồn gốc, xuất xứ cho người tiêu dùng.

Góp ý về giải pháp phục hồi và phát triển du lịch, đại biểu Nguyễn Thị Minh Tâm – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình đề nghị Chính phủ cân nhắc hỗ trợ tài chính và đào tạo lại, bảo đảm sự tồn tại của các doanh nghiệp và người lao động. Cụ thể, cần hỗ trợ tài chính trực tiếp và linh hoạt cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, lực lượng lao động trong lĩnh vực du lịch và người dân kinh doanh du lịch cộng đồng; tăng cường thanh khoản và khả năng tiếp cận các quỹ, nguồn vốn đầu tư, các khoản tín dụng, gia hạn trả nợ... Tạo cơ chế đối thoại, trao đổi thông tin hiệu quả, nhanh chóng giữa chính quyền, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội để nhanh chóng đưa ra các biện pháp tháo gỡ khó khăn và tận dụng các cơ hội cho phục hồi và phát triển du lịch trong giai đoạn bình thường mới. Xây dựng môi trường du lịch an toàn để kích thích nhu cầu du lịch vốn dĩ đang bị “nén” suốt mấy tháng qua.

Đại biểu Nguyễn Thị Minh Tâm cho rằng giải pháp ưu tiên là ban hành chính sách và triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn cho khách du lịch tại các điểm đến để tạo sự tin tưởng cho du khách. Hiện nay, nhiều địa phương trong đó có Quảng Bình đã khởi động lại hoạt động du lịch với các quy định, lộ trình. Do đó cần có quy trình xử lý sự cố xảy ra liên quan đến dich bệnh, đồng thời đánh giá mức độ an toàn. Quy trình này cần được chuẩn hoá trong phạm vi toàn quốc và cần có sự kết nối với các nước để “làm ấm” lại thị trường du lịch thế giới.

Cho biết, ngành du lịch chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do đại dịch COVID-19, tổng thu từ du lịch 8 tháng đầu năm 2021 giảm 26,5 % so với cùng kỳ, đại biểu Dương Tấn Quân – Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề nghị nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp du lịch về phát triển bền vững, cơ cấu lại từ hoạt động xúc tiến, quảng bá, định vị thị trường, mục tiêu xây dựng sản phẩm phù hợp, ưu tiên xây dựng các gói đẩy mạnh liên kết vùng giữa các địa phương...
 
Đại biểu Nguyễn Minh Tâm - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình 

Về giải pháp cho những hoạt động kinh tế mới, đại biểu Lã Thanh Tân – Đoàn ĐBQH Tp.Hải Phòng, cho rằng, trong bối cảnh dịch COVID-19 sẽ vẫn tiếp phức tạp, cần tiếp tục tìm giải pháp cho các hoạt động kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn. Một trong số đó là có giải pháp, chính sách cho phát triển mô hình khu công nghiệp sinh thái.

Đại biểu cho rằng, một trong những nội dung được quan tâm là chính sách khuyến khích phát triển các mô hình khu công nghiệp sinh thái. Khu công nghiệp sinh thái là mô hình khu công nghiệp hướng tới việc phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường, không những mang lại nhiều giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp mà còn đóng góp to lớn trong việc giảm thiểu tác động của các dự án sản xuất, môi trường, góp phần xây dựng kinh tế tuần hoàn. Tuy vậy, những chính sách ưu đãi đầu tư vào khu vực này cần thiết thực hơn đối với các nhà đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, doanh nghiệp trong khu công nghiệp có sự đột phá để khuyến khích nhà đầu tư phát triển theo mô hình khu công nghiệp sinh thái.

Đại biểu đề nghị, đối với chính sách ngoài những ưu đãi cho khu công nghiệp sinh thái theo quy định hiện hành thì Chính phủ cần nghiên cứu, xem xét bổ sung các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thuê mặt nước, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp có thể được áp dụng tương tự như khu kinh tế. Phân cấp theo quy định hiện hành thì chủ đầu tư phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục mới được công nhận là khu công nghiệp sinh thái, từ trình hồ sơ đăng ký chứng nhận khu công nghiệp sinh thái tại quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, Ban quản lý lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan. Sau khi có ý kiến các Bộ, ngành liên quan, Ban quản lý tổng hợp báo cáo Ủy ban An ninh tỉnh để cấp giấy chứng nhận khu công nghiệp sinh thái. Như vậy, về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận được quy định cho UBND cấp tỉnh nhưng phần thẩm định vẫn thuộc các bộ, ngành.
 
Đề xuất nghiên cứu các nhóm chính sách tài khóa, tiền tệ, đại biểu Vũ Tiến Lộc – Đoàn ĐBQH Tp.Hà Nội chỉ rõ sự đứt gẫy của các chuỗi cung ứng và dòng người lao động hồi hương từ dịch bệnh đã cho thấy một cách tiếp cận mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu các siêu đô thị, các đại công trường, các ngành công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp thì giá trị gia tăng thấp, sử dụng lực lượng lao động thủ công khổng lồ như hiện nay sẽ tiếp tục gây quá tải cho các trung tâm này. Mặt khác, thu hút đầu tư phát triển của các địa phương khác đang nghèo hơn và chủ yếu mưu sinh bằng nông nghiệp. Mô hình này cũng không đảm bảo sự phát triển bền vững, bao trùm và khó khả năng chống chịu trước những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai. Vì vậy, cần phải xây dựng thêm nhiều trung tâm và các chuỗi đô thị tại các vùng kinh tế khác nhau để tạo thêm những cực tăng trưởng mới của nền kinh tế để có thể chia lửa cho Thủ đô Hà Nội, cho Tp.Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ. Từ đó, có thể lan tỏa sự phát triển đến các vùng nông thôn và các tỉnh, thành phố khác để chúng ta có thể phát triển một nền kinh tế cân bằng, an toàn, hiệu quả; người lao động không phải ly hương mà có thể ly nông để có việc làm và ở trên quê hương, làm giàu trên quê hương mà không phải cuốn về các trung tâm đô thị chật chội.

Để thúc đẩy quá trình tái khởi động và phục hồi nền kinh tế trong hai năm tới, bên cạnh các chính sách về tài khóa, tiền tệ, về an sinh xã hội, đại biểu Vũ Tiến Lộc cũng cho rằng phải áp dụng một giải pháp phi tài chính; các cơ chế về các thủ tục đặc thù để thúc đẩy cho sản xuất kinh doanh, đầu tư toàn xã hội; rút gọn các thủ tục quản trị rủi ro, chuyển sang hậu kiểm, hạn chế thanh, kiểm tra, thực hiện chủ yếu trên nền tảng trực tuyến và không ban hành thêm bất cứ một chính sách nào có thể làm phát sinh các thủ tục và chi phí cho người dân và doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay. Theo đại biểu Vũ Tiến Lộc, dư địa chính sách tiền tệ là không còn nhiều nên biện pháp tiếp máu cho nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay chỉ có thể là sự cộng hưởng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, trong đó chính sách tài khóa phải đóng vai trò chủ đạo.

Đại biểu cũng bày tỏ lo ngại, mặc dù nhu cầu đầu tư cho cơ sở hạ tầng là rất lớn và rất cấp thiết, nhưng việc phân bố dàn trải cũng như quyết tâm đẩy nhanh giải ngân bằng mọi giá có thể dẫn tới hệ lụy là dòng vốn đầu tư sẽ chảy vào những dự án kém hiệu quả. Đại biểu đề nghị gói này cần tập trung vào các dự án trọng điểm quốc gia và Quốc hội giám sát chặt chẽ. Phần còn lại đề nghị dành cho bổ sung vào quỹ hỗ trợ lãi suất để hỗ trợ cho nền kinh tế và đề nghị thúc đẩy hình thức đối tác công tư nhà nước.
 
Đại biểu Lã Thanh Tân – Đoàn ĐBQH Tp.Hải Phòng

Kiên định nguyên tắc phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội

Giải trình tại Phiên họp, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung nêu rõ, trong Phiên thảo luận kinh tế - xã hội, các đại biểu đã quan tâm nhiều đến lĩnh vực lao động, người có công và an sinh xã hội với 05 nội dung lớn: Các chính sách về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội; phát triển các trụ cột chính của an sinh xã hội là bảo hiểm xã hội; chăm lo các đối tượng yếu thế; kết quả triển khai các gói hỗ trợ; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, nguồn lao động và chăm lo phục hồi thị trường lao động.

Làm rõ những nội dung đại biểu Quốc hội quan tâm, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biếtđối với vấn đề về đánh giá và nhìn nhận an sinh xã hội ở Việt Nam, thời gian vừa qua, chúng ta luôn kiên định nguyên tắc phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, không hy sinh công bằng xã hội để phát triển kinh tế đơn thuần. Do đó, hệ thống an sinh xã hội của chúng ta thời gian qua cơ bản là đáp ứng được các yêu cầu và thực hiện một quyền an sinh của người dân, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế và chỉ số phát triển con người tăng trưởng nhanh theo đánh giá và xếp hạng của Liên hợp quốc. Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam cũng đã từng bước hình thành ba chức năng cơ bản là phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro.

Đối với vấn đề về ban hành và triển khai các chính sách hỗ trợ thời gian vừa qua, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, cơ bản chúng ta đã tương đối chủ động, thực hiện bài bản theo lộ trình đi đôi với xử lý linh hoạt các phát sinh tình huống cụ thể. Ví dụ, đối với người yếu thế, ngay từ đầu năm chúng ta chủ động để ban hành Nghị định thay thế để nâng mức hỗ trợ bình quân cho người yếu lên gấp 3 lần, cá biệt có những đối tượng nâng lên 100%. Đối với người có công, Chính phủ đã ban hành Nghị định 75/2021/NĐ-CP và đảm bảo 7/12 nhóm đối tượng được nâng mức hỗ trợ hàng tháng. Đồng thời, hiện nay chúng ta đang triển khai khẩn trương các chính sách giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, đảm bảo đúng tiến độ mà Quốc hội quy định; tiến hành điều chỉnh các chính sách tiền lương đối với hưu trí, nhất là quan tâm đến lực lượng hưu trí trước năm 1995, người có lương hưu thấp.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biếttrong công tác phòng, chống dịch COVID-19, vừa qua Đảng, Nhà nước, đặc biệt mà trực tiếp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã chỉ đạo ban hành nhiều các chính sách hỗ trợ. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai và một số tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách với các gói ngân sách lớn, hàng triệu túi an sinh để đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo người dân an tâm ở nhà để tham gia phòng, chống dịch; thực hiện phương châm là an sinh xã hội là trọng yếu, là nhiệm vụ thường xuyên. Trong bối cảnh đó, chúng ta ban hành 03 gói chính sách lớn, nhiều chính sách chưa có tiền lệ và những giải pháp tình thế trong bối cảnh đặc biệt để kịp thời đáp ứng các yêu cầu cấp bách. Cụ thể, cho đến nay, tuy còn nhiều hạn chế, khuyết điểm nhưng 03 gói chính sách đã cho thấy một số kết quả: Gói hỗ trợ theo Nghị quyết 42/NQ-CP đã có trên 14 triệu đối tượng thụ hưởng; gói hỗ trợ theo Nghị quyết 68/NQ-CP qua 04 tháng triển khai đã hỗ trợ cho 26,71 triệu đối tượng thụ hưởng; gói hỗ trợ cho người lao động và sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp theo Nghị quyết của Chính phủ và Quốc hội đã rà soát, hỗ trợ 363 nghìn người sử dụng lao động, hỗ trợ tiền từ kết dư quỹ bảo hiểm cho trên 8 triệu người lao động. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh diễn biến dịch bệnh phức tạp, nhưng các chính sách của Nhà nước, các gói hỗ trợ của địa phương và vận động nguồn lực xã hội, của nhân dân đã giúp chính sách an sinh xã hội đã được thực hiện tốt.

Đối với vấn đề về thị trường lao động, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, tuy đại dịch đã ảnh hưởng rất lớn đến thị trường lao động nhưng sau hơn một tháng thực hiện thích ứng linh hoạt, an toàn, hiệu quả, tình hình lao động đang có tiến triển rất khả quan. Theo báo cáo tại các tỉnh phía Nam và kiểm tra thực tế, hiện nay phục hồi sản xuất trong các khu công nghiệp chế xuất từ 50 đến 80%; số lao động phục hồi hiện nay 70% đến 75%, cá biệt có địa phương tới 90%. So với nhu cầu và yêu cầu đáp ứng đơn hàng thì chúng ta còn thiếu lực lượng lao động nhưng không đến mức trầm trọng trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, do chúng ta đã chủ động những giải pháp nhất định, các địa phương cũng từng bước phục hồi sản xuất, vừa đảm bảo sản xuất, vừa an toàn và chưa sử dụng hết công suất. Theo dự báo, đến hết Quý I và đầu Quý II/2022, nếu không có diễn biến phức tạp, khả năng phục hồi trở lại thị trường lao động như bình thường có thể đáp ứng được.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cũng nêu rõ, Bộ đã chủ trương báo cáo Chính phủ và xây dựng chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động đi đôi với vấn đề an sinh xã hội bao gồm hai giai đoạn: Giai đoạn phục hồi và giai đoạn bứt phá. Với những cơ chế, chính sách đề xuất, chương trình tập trung 07 vấn đề lớn: Hỗ trợ trực tiếp tiền mặt cho một số đối tượng, lực lượng lao động để góp phần phục hồi, kích cầu tiêu dùng; hỗ trợ hộ kinh doanh, người lao động vay vốn ưu đãi, khôi phục, duy trì phát triển sản xuất, giải quyết việc làm; nâng cao hiệu quả ứng dụng về dịch vụ công, việc làm hiệu quả, đổi mới cung cầu lao động, phát triển lao động trực tuyến, giao dịch việc làm, kết nối việc làm; hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại, phát triển hệ thống đào tạo chất lượng cao; đầu tư phát triển các cơ sở, chăm lo đối tượng yếu thế, tổn thương vì dịch bệnh; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động, chuyển đổi số trong lĩnh vực dân cư và kết nối với lao động; tập trung chăm lo phát triển nhà ở xã hội cho người nghèo, công nhân và những người lao động ở các khu nhập cư./.

Hà Linh
 

Xem thêm »