05/01/2022
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, Quốc hội khóa XV: Chính phủ trình Quốc hội giải pháp về chính sách tài khóa, tiền tệ, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (sav.gov.vn) - Ngày 4/1/2022, tại phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, Quốc hội khóa XV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình; Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.Khôi phục nhanh chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động, thúc đẩy các động lực tăng trưởng
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chính phủ đã có Tờ trình số 02/TTr-CP ngày 2/1/2022, trình Quốc hội đề án và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội. Chương trình phục hồi phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (Chương trình) được Chính phủ xây dựng bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, trong đó: Bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài; gắn kết với kế hoạch 5 năm, hằng năm đã được Quốc hội thông qua; gắn với Chương trình tổng thể phòng, chống dịch COVID-19; phối hợp chặt chẽ, hài hòa, hiệu quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác. Chương trình có quy mô đủ lớn, tác động cả phía cung và phía cầu; có mục tiêu trọng tâm, trọng điểm, xác định đúng đối tượng cần hỗ trợ, tránh lãng phí nguồn lực, gắn trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và cấp ủy, chính quyền các cấp với kết quả thực hiện; thời gian thực hiện chủ yếu trong 2 năm 2022-2023 với lộ trình thích hợp để phục hồi và phát triển nền kinh tế.
Mục tiêu của Chương trình là khôi phục nhanh chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5-7%/năm giai đoạn 2021-2025, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong trung và dài hạn. Chương trình xác định khung những vấn đề trọng tâm, cần tập trung giải quyết, bao gồm 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu với quy mô thực hiện dự kiến trong năm 2022-2023: Dành 60.000 tỷ đồng để mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh dành 53.150 tỷ đồng để bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm; dành 110.000 tỷ đồng để hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; dành 113.850 tỷ đồng để phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển; huy động từ các Quỹ tài chính ngoài NSNN khoảng 10 nghìn tỷ đồng.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Chương trình xây dựng chính sách, giải pháp hỗ trợ khả thi, kịp thời, hiệu quả, có khả năng hấp thụ nhanh, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát, đánh giá, tạo động lực tăng trưởng mới, nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh, tính tự chủ của nền kinh tế trong trung và dài hạn. Phục hồi, phát triển nhanh sản xuất kinh doanh, nhất là ngành, lĩnh vực quan trọng, tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân trên cơ sở thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch.
Bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, người lao động, nhất là người nghèo, người yếu thế, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến về một số chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình. Cụ thể: Tăng bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN) 240.000 tỷ đồng trong 2 năm 2022-2023 để có nguồn thực hiện Chương trình, trong đó năm 2022 khoảng 102.800 tỷ đồng, tăng tỷ lệ bội chi NSNN lên 5,08% GDP (tăng thêm khoảng 1,1% GDP so với dự toán NSNN năm 2022 đã được Quốc hội thông qua).
Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phép: Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN bình quân giai đoạn 2021-2025 có thể cao hơn 25%; tổng mức vay, trả nợ của ngân sách Trung ương có thể cao hơn Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia Quốc hội đã phê duyệt; kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân thấp hơn 9 năm. Chấp thuận việc NSNN có thể vay các nguồn tài chính hợp pháp khác phù hợp và hoàn trả khi có nguồn trong kế hoạch tài chính-NSNN hàng năm hoặc các nguồn khác. Bộ Tài chính phát hành trực tiếp trái phiếu Chính phủ cho Ngân hàng Nhà nước.
Giao Chính phủ xây dựng phương án phân bổ dự toán NSNN và phương án bổ sung kế hoạch đầu tư công năm 2022 cho các chương trình, dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và các dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội đã đủ thủ tục theo quy định.
Tiếp tục miễn, giảm thuế khoảng 64.000 tỷ đồng trong năm 2022 và tính vào bội chi NSNN tương ứng (đã tính trong tổng số kiến nghị tăng bội chi 240.000 tỷ đồng tại mục 1 nêu trên). Tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu phát hành trong nước của Ngân hàng Chính sách Xã hội tối đa 38.400 tỷ đồng để thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cho vay ưu đãi trong 2 năm 2022-2023. Cho phép bố trí NSNN để tăng vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong giai đoạn 2021-2023.
Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ sẽ nghiêm túc, khẩn trương tổ chức triển khai, ban hành nhanh các giải pháp thuộc thẩm quyền của Chính phủ; phân công chi tiết nhiệm vụ cho các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức triển khai; tăng cường theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc, bảo đảm tính hiệu quả và khả thi, tránh lạm dụng chính sách, gắn với cá thể hóa trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát thực hiện.
Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức triển khai; huy động sự vào cuộc, tham gia giám sát ngay từ đầu của Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan chức năng, bảo đảm công khai, minh bạch, chống tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm; báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện sau khi kết thúc thời hạn áp dụng chính sách.
Về Danh mục các dự án đầu tư công, giao Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương liên quan khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư các dự án, quyết định điều chỉnh chủ trương theo thẩm quyền. Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi phân bổ và giao kế hoạch theo quy định của Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội.
Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội nhất trí với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế (UBKT) của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, UBKT nhất trí với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình với các lý do đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ, nhằm cụ thể hóa Kết luận số 20-KL/TW ngày 16.10.2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, các Nghị quyết của Quốc hội và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo tại phiên họp
Phân tích những nội dung cụ thể liên quan tới quy mô tổng thể chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác, UBKT thấy rằng một số chính sách hỗ trợ dự kiến triển khai nhưng chưa được tính toán vào quy mô hỗ trợ tổng thể của Chương trình, vì vậy cần bổ sung, tính toán lại số liệu, làm rõ tổng quy mô của các chính sách hỗ trợ; cần đánh giá tác động đầy đủ, nhiều chiều của việc thực hiện các chính sách nêu trên. Liên quan tới chính sách tài khóa, về tăng bội chi NSNN, UBKT tán thành việc chấp nhận thâm hụt NSNN tăng ở mức cao hơn, mỗi năm tăng khoảng 1% đến 1,2% GDP trong 2 năm thực hiện Chương trình (2022-2023).
Về nguồn vốn và giải ngân vốn, Chính phủ dự kiến phần vốn Nhà nước bổ sung 72.497 tỉ đồng sẽ cân đối từ “Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội”, UBKT nhận thấy Dự án đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, do đó cần tập trung ưu tiên bố trí vốn từ Chương trình để bảo đảm tiến độ cho Dự án. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ bổ sung, làm rõ phương án điều hòa nguồn vốn đầu tư công trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 (Kế hoạch) và nguồn vốn đầu tư công trong chương trình để ưu tiên vốn của chương trình cho các dự án trọng điểm, có tác dụng lan tỏa, liên kết vùng. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng, có khả năng hấp thụ vốn và đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành trong hai năm 2022 – 2023 và sắp xếp lại Kế hoạch để bố trí vốn thực hiện dự án trong giai đoạn 2024 – 2025.
Về chính sách thuế, đa số ý kiến của UBKT thống nhất với chủ trương miễn, giảm một số loại thuế, phí, trong đó thống nhất chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% áp dụng cho các mặt hàng chịu thuế suất 10% nhưng đề nghị rà soát đối tượng áp dụng; cần tập trung vào các ngành, lĩnh vực cần được kích cầu, có tác dụng lan tỏa, cần loại trừ các sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Về chi trực tiếp từ NSNN cho đầu tư phát triển, UBKT thống nhất việc chi trực tiếp từ NSNN sử dụng để chi đầu tư phát triển. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ rà soát kỹ danh mục đề xuất, bảo đảm hiệu quả thiết thực, phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công, phù hợp với khả năng hấp thụ, giải ngân vốn đầu tư công.
Về nguồn tăng thu, tiết kiệm chi năm 2021, đa số ý kiến nhất trí việc sử dụng 6,6 nghìn tỉ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương năm 2021 để hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động và đề nghị cần có giải pháp phù hợp, hiệu quả, tránh trục lợi.
Về chính sách hỗ trợ lãi suất, đa số ý kiến nhất trí, tuy nhiên cần tập trung vào một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi hoặc được bảo lãnh tín dụng; chú trọng khoản vay tạo dư địa cho phục hồi và phát triển như việc cải tạo chung cư cũ; xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân thuê và thuê mua…; quy định rõ đối tượng, phạm vi, điều kiện vay vốn; kiểm soát chặt chẽ, tránh trục lợi chính sách.
Về tăng thêm hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách Xã hội, UBKT tán thành với Tờ trình, tuy nhiên cần rà soát khả năng giải ngân, cân nhắc về mức tăng hạn mức cụ thể.
Về chính sách tiền tệ, UBKT đề nghị cần lượng hóa các giải pháp của chính sách tiền tệ để đánh giá tác động đến nền kinh tế, bên cạnh đó, đề nghị xem xét thêm một số vấn đề: Chủ động sử dụng đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất khoảng 0,5% đến 1%, nhất là trong các lĩnh vực ưu tiên; Việc tiếp tục tái cấp vốn và gia hạn vay tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách Xã hội để cho người sử dụng lao động vay trả lương cho người lao động cần có giải pháp mang tính khả thi, tổ chức triển khai nhanh trong thực tế.
Chủ nhiệm UBKT Vũ Hồng Thanh cũng nêu một số vấn đề xin ý kiến Quốc hội về: Miễn, giảm thuế; Tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19; Tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu phát hành trong nước của Ngân hàng Chính sách Xã hội; Tăng vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… UBKT đề nghị Chính phủ tiếp tục làm rõ để Quốc hội có cơ sở xem xét, quyết định. Đối với bội chi NSNN, UBKT tán thành tăng từ 1% đến 1,2%/GDP mỗi năm (2022, 2023). Đối với một số chỉ tiêu khác liên quan đến kế hoạch tài chính quốc gia, vay và trả nợ 5 năm: Đề nghị trước mắt cân nhắc việc điều chỉnh; thực hiện điều chỉnh linh hoạt trong 2 năm 2022-2023 nhưng cần có giải pháp để phấn đấu đạt các chỉ tiêu tài chính quốc gia 5 năm vào cuối giai đoạn 2021-2025./.
Khánh Vy
(sav.gov.vn) - Ngày 4/1/2022, tại phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, Quốc hội khóa XV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình; Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Quang cảnh phiên họp
Khôi phục nhanh chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động, thúc đẩy các động lực tăng trưởng
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chính phủ đã có Tờ trình số 02/TTr-CP ngày 2/1/2022, trình Quốc hội đề án và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội. Chương trình phục hồi phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (Chương trình) được Chính phủ xây dựng bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, trong đó: Bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài; gắn kết với kế hoạch 5 năm, hằng năm đã được Quốc hội thông qua; gắn với Chương trình tổng thể phòng, chống dịch COVID-19; phối hợp chặt chẽ, hài hòa, hiệu quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác. Chương trình có quy mô đủ lớn, tác động cả phía cung và phía cầu; có mục tiêu trọng tâm, trọng điểm, xác định đúng đối tượng cần hỗ trợ, tránh lãng phí nguồn lực, gắn trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và cấp ủy, chính quyền các cấp với kết quả thực hiện; thời gian thực hiện chủ yếu trong 2 năm 2022-2023 với lộ trình thích hợp để phục hồi và phát triển nền kinh tế.
Mục tiêu của Chương trình là khôi phục nhanh chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5-7%/năm giai đoạn 2021-2025, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong trung và dài hạn. Chương trình xác định khung những vấn đề trọng tâm, cần tập trung giải quyết, bao gồm 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu với quy mô thực hiện dự kiến trong năm 2022-2023: Dành 60.000 tỷ đồng để mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh dành 53.150 tỷ đồng để bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm; dành 110.000 tỷ đồng để hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; dành 113.850 tỷ đồng để phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển; huy động từ các Quỹ tài chính ngoài NSNN khoảng 10 nghìn tỷ đồng.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Chương trình xây dựng chính sách, giải pháp hỗ trợ khả thi, kịp thời, hiệu quả, có khả năng hấp thụ nhanh, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát, đánh giá, tạo động lực tăng trưởng mới, nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh, tính tự chủ của nền kinh tế trong trung và dài hạn. Phục hồi, phát triển nhanh sản xuất kinh doanh, nhất là ngành, lĩnh vực quan trọng, tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân trên cơ sở thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch.
Bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, người lao động, nhất là người nghèo, người yếu thế, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến về một số chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình. Cụ thể: Tăng bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN) 240.000 tỷ đồng trong 2 năm 2022-2023 để có nguồn thực hiện Chương trình, trong đó năm 2022 khoảng 102.800 tỷ đồng, tăng tỷ lệ bội chi NSNN lên 5,08% GDP (tăng thêm khoảng 1,1% GDP so với dự toán NSNN năm 2022 đã được Quốc hội thông qua).
Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phép: Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN bình quân giai đoạn 2021-2025 có thể cao hơn 25%; tổng mức vay, trả nợ của ngân sách Trung ương có thể cao hơn Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia Quốc hội đã phê duyệt; kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân thấp hơn 9 năm. Chấp thuận việc NSNN có thể vay các nguồn tài chính hợp pháp khác phù hợp và hoàn trả khi có nguồn trong kế hoạch tài chính-NSNN hàng năm hoặc các nguồn khác. Bộ Tài chính phát hành trực tiếp trái phiếu Chính phủ cho Ngân hàng Nhà nước.
Giao Chính phủ xây dựng phương án phân bổ dự toán NSNN và phương án bổ sung kế hoạch đầu tư công năm 2022 cho các chương trình, dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và các dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội đã đủ thủ tục theo quy định.
Tiếp tục miễn, giảm thuế khoảng 64.000 tỷ đồng trong năm 2022 và tính vào bội chi NSNN tương ứng (đã tính trong tổng số kiến nghị tăng bội chi 240.000 tỷ đồng tại mục 1 nêu trên). Tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu phát hành trong nước của Ngân hàng Chính sách Xã hội tối đa 38.400 tỷ đồng để thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cho vay ưu đãi trong 2 năm 2022-2023. Cho phép bố trí NSNN để tăng vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong giai đoạn 2021-2023.
Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ sẽ nghiêm túc, khẩn trương tổ chức triển khai, ban hành nhanh các giải pháp thuộc thẩm quyền của Chính phủ; phân công chi tiết nhiệm vụ cho các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức triển khai; tăng cường theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc, bảo đảm tính hiệu quả và khả thi, tránh lạm dụng chính sách, gắn với cá thể hóa trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát thực hiện.
Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức triển khai; huy động sự vào cuộc, tham gia giám sát ngay từ đầu của Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan chức năng, bảo đảm công khai, minh bạch, chống tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm; báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện sau khi kết thúc thời hạn áp dụng chính sách.
Về Danh mục các dự án đầu tư công, giao Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương liên quan khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư các dự án, quyết định điều chỉnh chủ trương theo thẩm quyền. Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi phân bổ và giao kế hoạch theo quy định của Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội.
Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội nhất trí với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế (UBKT) của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, UBKT nhất trí với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình với các lý do đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ, nhằm cụ thể hóa Kết luận số 20-KL/TW ngày 16.10.2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, các Nghị quyết của Quốc hội và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo tại phiên họp
Phân tích những nội dung cụ thể liên quan tới quy mô tổng thể chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác, UBKT thấy rằng một số chính sách hỗ trợ dự kiến triển khai nhưng chưa được tính toán vào quy mô hỗ trợ tổng thể của Chương trình, vì vậy cần bổ sung, tính toán lại số liệu, làm rõ tổng quy mô của các chính sách hỗ trợ; cần đánh giá tác động đầy đủ, nhiều chiều của việc thực hiện các chính sách nêu trên. Liên quan tới chính sách tài khóa, về tăng bội chi NSNN, UBKT tán thành việc chấp nhận thâm hụt NSNN tăng ở mức cao hơn, mỗi năm tăng khoảng 1% đến 1,2% GDP trong 2 năm thực hiện Chương trình (2022-2023).
Về nguồn vốn và giải ngân vốn, Chính phủ dự kiến phần vốn Nhà nước bổ sung 72.497 tỉ đồng sẽ cân đối từ “Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội”, UBKT nhận thấy Dự án đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, do đó cần tập trung ưu tiên bố trí vốn từ Chương trình để bảo đảm tiến độ cho Dự án. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ bổ sung, làm rõ phương án điều hòa nguồn vốn đầu tư công trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 (Kế hoạch) và nguồn vốn đầu tư công trong chương trình để ưu tiên vốn của chương trình cho các dự án trọng điểm, có tác dụng lan tỏa, liên kết vùng. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng, có khả năng hấp thụ vốn và đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành trong hai năm 2022 – 2023 và sắp xếp lại Kế hoạch để bố trí vốn thực hiện dự án trong giai đoạn 2024 – 2025.
Về chính sách thuế, đa số ý kiến của UBKT thống nhất với chủ trương miễn, giảm một số loại thuế, phí, trong đó thống nhất chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% áp dụng cho các mặt hàng chịu thuế suất 10% nhưng đề nghị rà soát đối tượng áp dụng; cần tập trung vào các ngành, lĩnh vực cần được kích cầu, có tác dụng lan tỏa, cần loại trừ các sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Về chi trực tiếp từ NSNN cho đầu tư phát triển, UBKT thống nhất việc chi trực tiếp từ NSNN sử dụng để chi đầu tư phát triển. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ rà soát kỹ danh mục đề xuất, bảo đảm hiệu quả thiết thực, phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công, phù hợp với khả năng hấp thụ, giải ngân vốn đầu tư công.
Về nguồn tăng thu, tiết kiệm chi năm 2021, đa số ý kiến nhất trí việc sử dụng 6,6 nghìn tỉ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương năm 2021 để hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động và đề nghị cần có giải pháp phù hợp, hiệu quả, tránh trục lợi.
Về chính sách hỗ trợ lãi suất, đa số ý kiến nhất trí, tuy nhiên cần tập trung vào một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi hoặc được bảo lãnh tín dụng; chú trọng khoản vay tạo dư địa cho phục hồi và phát triển như việc cải tạo chung cư cũ; xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân thuê và thuê mua…; quy định rõ đối tượng, phạm vi, điều kiện vay vốn; kiểm soát chặt chẽ, tránh trục lợi chính sách.
Về tăng thêm hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách Xã hội, UBKT tán thành với Tờ trình, tuy nhiên cần rà soát khả năng giải ngân, cân nhắc về mức tăng hạn mức cụ thể.
Về chính sách tiền tệ, UBKT đề nghị cần lượng hóa các giải pháp của chính sách tiền tệ để đánh giá tác động đến nền kinh tế, bên cạnh đó, đề nghị xem xét thêm một số vấn đề: Chủ động sử dụng đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất khoảng 0,5% đến 1%, nhất là trong các lĩnh vực ưu tiên; Việc tiếp tục tái cấp vốn và gia hạn vay tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách Xã hội để cho người sử dụng lao động vay trả lương cho người lao động cần có giải pháp mang tính khả thi, tổ chức triển khai nhanh trong thực tế.
Chủ nhiệm UBKT Vũ Hồng Thanh cũng nêu một số vấn đề xin ý kiến Quốc hội về: Miễn, giảm thuế; Tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19; Tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu phát hành trong nước của Ngân hàng Chính sách Xã hội; Tăng vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… UBKT đề nghị Chính phủ tiếp tục làm rõ để Quốc hội có cơ sở xem xét, quyết định. Đối với bội chi NSNN, UBKT tán thành tăng từ 1% đến 1,2%/GDP mỗi năm (2022, 2023). Đối với một số chỉ tiêu khác liên quan đến kế hoạch tài chính quốc gia, vay và trả nợ 5 năm: Đề nghị trước mắt cân nhắc việc điều chỉnh; thực hiện điều chỉnh linh hoạt trong 2 năm 2022-2023 nhưng cần có giải pháp để phấn đấu đạt các chỉ tiêu tài chính quốc gia 5 năm vào cuối giai đoạn 2021-2025./.
Khánh Vy