(sav.gov.vn) - Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tháo gỡ các rào cản thể chế đang trở thành yêu cầu cấp thiết và sống còn.

Quốc hội nghe báo cáo về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
Ngày 24 tháng 6 năm 2025, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua Nghị quyết số 206/2025/QH15 về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Đây là một văn bản pháp lý mang tính đột phá lịch sử, thể hiện rõ quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Quốc hội trong việc kịp thời xử lý các bất cập, nút thắt thể chế, biến hệ thống pháp luật thành động lực thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, khơi thông mọi nguồn lực xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Nghị quyết được xây dựng trên nền tảng vững chắc của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết 203/2025/QH15), Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới nhất (số 64/2025/QH15). Văn bản này ra đời nhằm đáp ứng trực tiếp thực tiễn đang đặt ra nhiều thách thức: hệ thống pháp luật Việt Nam dù đã có những bước tiến lớn nhưng vẫn còn tồn tại không ít quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu rõ ràng, không hợp lý hoặc không khả thi trong áp dụng. Những bất cập này đã và đang gây ách tắc nghiêm trọng trong thực thi pháp luật, kìm hãm sự đổi mới sáng tạo, cản trở việc phát triển các động lực tăng trưởng mới, làm tăng chi phí tuân thủ và giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư.
Tại Điều 1, Nghị quyết xác định rõ phạm vi điều chỉnh, bao quát toàn diện các khía cạnh từ tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình đến trách nhiệm xử lý khó khăn, vướng mắc. Đồng thời, để bảo vệ các giá trị cốt lõi của nhà nước pháp quyền, Nghị quyết quy định rõ không áp dụng cơ chế đặc biệt đối với các nội dung nhạy cảm liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà Hiến pháp yêu cầu phải do luật định; việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt; tố tụng tư pháp; cũng như các nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước.
Điều 2 đưa ra ba tiêu chí cụ thể, khoa học để xác định khó khăn, vướng mắc, với điều kiện bắt buộc là phải gây kìm hãm, ách tắc hoặc cản trở phát triển kinh tế - xã hội: thứ nhất, quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản hoặc giữa các văn bản; thứ hai, quy định không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý hoặc không khả thi trong thực tiễn; thứ ba, quy định tạo gánh nặng chi phí tuân thủ quá lớn, hoặc hạn chế đổi mới sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Các tiêu chí này không chỉ mang tính định tính mà còn định lượng rõ ràng, giúp các cơ quan nhà nước dễ dàng nhận diện và ưu tiên xử lý.
Về nguyên tắc xử lý tại Điều 3, Nghị quyết khẳng định năm nguyên tắc nền tảng, phản ánh sâu sắc đường lối của Đảng và bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm tính hợp hiến và thống nhất của hệ thống pháp luật; bảo đảm công khai, minh bạch, kiểm soát quyền lực chặt chẽ, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm và cục bộ; xử lý nhanh chóng, kịp thời, có trọng tâm trọng điểm các vấn đề cấp bách của thực tiễn, đưa pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh thực sự; không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt bảo vệ quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do hợp đồng và không tăng trách nhiệm bất hợp lý cho người dân, doanh nghiệp.
Điểm sáng mang tính cách mạng của Nghị quyết nằm ở Điều 4 với các phương án xử lý linh hoạt, đột phá. Bên cạnh các phương án truyền thống như giải thích luật, hướng dẫn áp dụng hoặc ban hành văn bản mới theo thủ tục rút gọn, Nghị quyết lần đầu tiên cho phép Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật tạm thời để điều chỉnh một số quy định của luật trong thời gian chờ sửa đổi chính thức. Các nghị quyết này có hiệu lực rõ ràng đến trước ngày 01/3/2027, được đánh số ký hiệu riêng biệt (ví dụ: 66.1/2025/NQ-CP hoặc 66.1/2025/UBTVQH15), kèm theo các điều kiện chặt chẽ như xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền của Đảng khi cần, báo cáo Quốc hội và bảo đảm tính đồng bộ.
Điều 5 quy định quy trình xây dựng, ban hành văn bản hết sức chặt chẽ nhưng nhanh chóng, với cơ chế Hội đồng thẩm định độc lập do Bộ Tư pháp chủ trì, thành viên từ nhiều bộ ngành, cơ quan Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, thời hạn thẩm định chỉ 5 ngày làm việc. Điều 6 phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan, yêu cầu ưu tiên nguồn lực, người đứng đầu chịu trách nhiệm trực tiếp và quy định miễn trách nhiệm nếu tuân thủ quy trình mà không vụ lợi. Điều 7 xác định hiệu lực thi hành từ ngày thông qua đến hết ngày 28/2/2027 với cơ chế chuyển tiếp hợp lý.
Nghị quyết 206/2025/QH15 là minh chứng sống động cho tinh thần đổi mới, trách nhiệm cao của Quốc hội khóa XV, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến tháng 12/2025, nhiều bộ ngành đã tích cực triển khai, tạo xung lực mới mạnh mẽ cho nền kinh tế.
Huyền Ngân