Trong buổi sáng, đã có 15 đại biểu phát biểu thảo luận, 1 đại biểu phát biểu tranh luận, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu giải trình một số nội dung đại biểu Quốc hội quan tâm.
Các đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ); Nguyễn Minh Sơn (Tiền Giang); Trần Văn Minh (Quảng Ninh); Mai Sĩ Diến (Thanh Hóa); Hoàng Văn Cường (Hà Nội), Võ Đình Tín (Đắc Nông), Mai Hồng Hải (Hải Phòng); Nguyễn Thị Yến (Bà Rịa - Vũng Tàu); Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình); Bế Minh Đức (Cao Bằng), Vũ Tiến Lộc (Thái Bình), Trịnh Ngọc Phương (Tây Ninh)... bày tỏ nhất trí cao với Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo của Đoàn giám sát về thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý vốn, tài sản Nhà nước (TSNN) và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Các đại biểu Quốc hội khẳng định công tác quản lý vốn, TSNN, cổ phần hóa DNNN thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Qua đó các đại biểu đề xuất nhiều nội dung để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại, vướng mắc nhằm thực hiện tốt công tác này trong thời gian tới, như: Kiện toàn hệ thống quy định của pháp luật về quản lý vốn, tài sản, cổ phần DNNN (xây dựng Luật cổ phần hóa; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trong nước tham gia quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,...); kiện toàn mô hình hoạt động của SCIC; xử lý dứt điểm các Tập đoàn, Tổng công ty, công ty, dự án kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài; xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cá nhân sai phạm trong quá trình cổ phần hóa nhằm ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước; quản lý chặt vấn đề sử dụng đất trước, trong và sau khi cổ phần hóa DNNN; nâng cao chất lượng quản trị DNNN, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; định giá đúng tài sản DNNN trước khi cổ phần hóa; đảm bảo công khai, minh bạch việc mua bán tài sản, thoái vốn của Nhà nước; di dời các doanh nghiệp trong nội thị ra các khu công nghiệp; định giá đúng giá trị thương hiệu của doanh nghiệp khi cổ phần hóa các DNNN lớn; đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước một cách thực chất; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư, cổ đông, người lao động khi cổ phần hóa DNNN; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân sai phạm trong quá trình cổ phần hóa DNNN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản lý vốn, tài sản, cổ phần hóa DNNN...
Quản lý chặt quỹ đất khi cổ phần hóa DNNN
Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà đã giải trình làm rõ một số nội dung liên quan đến định giá đất, quản lý, sử dụng đất đai trong quá trình cổ phần hóa DNNN.
Bộ trưởng cho biết, trước đây do hạn chế trong các quy định của pháp luật về đất đai, nên trong quá trình tiến hành rà soát quỹ đất, sử dụng đất để cổ phần hóa DNNN chưa có sự đánh giá về giá trị đất, dẫn đến khi tính toán giá trị doanh nghiệp, không tính toán được giá trị đất để tiến hành cổ phần hóa...
Để khắc phục hạn chế trên, Bộ TN&MT đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định 01/2017/NĐ-CP, qua đó việc quản lý đất đai trong quá trình cổ phần hóa DNNN được thực hiện chặt chẽ hơn, trong đó, quy định cụ thể phương án sử dụng đất DNNN trước khi cổ phần hóa; việc xác định giá đất khi cổ phần hóa phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và quy định của địa phương, công bố công khai, minh bạch...
Bên cạnh đó, Bộ TN&MT cùng các cơ quan hữu trách cũng tiến hành thanh tra, kiểm tra các dự án cổ phần hóa, nếu phát hiện vấn đề thiếu minh bạch, không phù hợp sẽ có biện pháp xử lý; có giải pháp giải quyết vấn đề đất đai nông lâm trường...
Phân định rạch ròi giữa quản lý Nhà nước và quản trị doanh nghiệp
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã giải trình một số vấn đề liên quan đến việc quản lý phần vốn của Nhà nước đối với một số doanh nghiệp thuộc chức năng quản lý của Bộ.
Theo Bộ trưởng, trong quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật; sự chồng chéo giữa chức năng quản lý Nhà nước với quản trị doanh nghiệp; dẫn đến tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi", chất lượng đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh chưa hiệu quả, thua lỗ, mất mát vốn, lãng phí, thậm chí sai phạm...
Bày tỏ đồng tình với nội dung các giải pháp nêu ra trong báo cáo giám sát, Bộ trưởng nhấn mạnh giải pháp đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quản lý vốn, cổ phần hóa DNNN; việc cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước cần làm rõ các nguyên tắc cơ bản để khai thác, sử dụng tốt nguồn vốn đang đầu tư hiệu quả; phân định rạch ròi giữa quản lý nhà nước với quản trị doanh nghiệp; nội luật hóa các cam kết quốc tế...
Nghiên cứu ban hành Luật cổ phần hóa
Theo đại biểu Vũ Tiến Lộc, chủ trương đúng đắn và rất cần được quán triệt xuyên suốt trong quá trình cải cách DNNN để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn bộ nền kinh tế là phải quyết liệt đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các DNNN một cách thực chất, thoái vốn Nhà nước ra khỏi hầu hết các lĩnh vực kinh doanh mà Nhà nước không cần phải nắm giữ theo đúng tinh thần của các nghị quyết của Đảng.
Cho rằng tiến trình cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước thời gian qua lại diễn ra “rất chậm chạp”, đại biểu đề nghị, trong thời gian tới, Chính phủ sẽ thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các DNNN một cách quyết liệt như đã và đang thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, cắt bỏ “giấy phép con” và điều kiện kinh doanh thời gian qua.
Theo đại biểu “nếu được như vậy, động lực phát triển tại các DN sẽ được khơi dậy và tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân. Từ đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và cải thiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta”.
Đại biểu cũng kiến nghị, Quốc hội nghiên cứu ban hành Luật về cổ phần hóa. Đây sẽ là khung khổ chính sách để thúc đẩy khu vực DN tư nhân trong nước tham gia được vào quá trình thoái vốn nhà nước trong DN.
Bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình cổ phần hóa
Cơ bản nhất trí với các kiến nghị trong dự thảo Nghị quyết kết quả giám sát, song đại biểu Hoàng Văn Cường (Hà Nội) cho rằng, việc định giá DN cần quy định cụ thể hơn nữa, nhằm tôn trọng, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của DN và nhà đầu tư, nhằm không thất thoát vốn Nhà nước, thu hút nhà đầu tư tham gia. Các phát hiện, đề xuất qua kiểm toán cần được tập hợp thành bộ tài liệu về định giá thông tin DNNN trong quá trình cổ phần hóa.
Đồng thời phải bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình cổ phần hóa về việc triển khai các thông tin liên quan đến hoạt động của DNNN sẽ cổ phần hóa và quyền được tiếp cận thông tin của nhà đầu tư. Thực hiện việc công bố danh mục DN dự kiến sẽ cổ phần hóa trên cổng thông tin của Chính phủ; DN được cổ phần hóa phải thực hiện nghiêm túc lộ trình đã phê duyệt; siết chặt việc bảo đảm chất lượng công bố thông tin của DNNN.
Đại biểu đề nghị Chính phủ làm rõ và trình ra Quốc hội về tài sản công có tính thương mại hiện nay là bao nhiêu, đang ở những DN nào? Loại tài sản công nào sinh lợi cần tiếp tục để phục vụ quá trình phát triển KT-XH? Loại tài sản công nào kém hiệu quả, cần tiếp tục thoái để thu hút nhà đầu tư trong quá trình cổ phần hóa tới đây, thông qua đó đẩy nhanh tiến độ và chất lượng cổ phần hóa, tách bạch giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ chính trị có tính công ích của DNNN; hạn chế tối đa can thiệp hành chính, can thiệp công việc mang tính vụ việc vào sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DN, nhằm sai lệch mục tiêu chiến lược và dài hạn của đầu tư Nhà nước.
Đồng thời, xây dựng lộ trình hợp lý trong thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán đối với DNNN, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản Nhà nước; thực hiện công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong đầu tư, quản lý, phân phối thu nhập; xử lý nghiêm khắc, mang tính răn đe đối với những vi phạm.
Đầu tư ra nước ngoài: Làm rõ dự án lỗ, lãi
Về vấn đề DNNN đầu tư ra nước ngoài, dẫn báo cáo Chính phủ trang 38, đại biểu cho biết tính đến 31/12/2016 đã có 18 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước có dự án đầu tư ra nước ngoài, thực hiện đầu tư 110 dự án với tổng vốn đầu tư đã thực hiện hơn 7 tỷ USD, chủ yếu tập trung trong khai thác dầu khí, viễn thông, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản… Trong đó, 25,5% dự án báo lỗ, 29% dự án lỗ, 46,6% dự án không có báo cáo doanh thu, lợi nhuận. Chỉ riêng năm 2016, lợi nhuận được chia cho Việt Nam là 145 triệu USD.
Cho rằng, nội dung này của báo cáo còn tương đối đơn giản, chưa lột tả được bức tranh tổng thể đầu tư ra nước ngoài của các DNNN, đại biểu đề nghị báo cáo cần làm rõ, dự án thuộc ngành, lĩnh vực nào lỗ và lãi, hạn chế vướng mắc, nguyên nhân của việc lỗ.
Chính phủ, cần rà soát, tổng kết vấn đề này, để đánh giá thực chất hơn, đưa ra các giải pháp xử lý, cơ cấu lại đối với những dự án đầu tư kém hiệu quả theo hướng bán, chuyển nhượng.
Trong đó, cũng cần chú ý đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời vướng mắc cho DN, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả đầu tư đối với một số dự án quan trọng mang tính chiến lược...
Xem lại quy định xác định giá trị quyền thuê đất
Về cổ phần hóa DN, đại biểu Nguyễn Minh Sơn cho rằng, xử lý đất đai và xác định quyền sử dụng đất cho các DN cổ phần hóa là vấn đề được quan tâm nhất trong quá trình cổ phần hóa thời gian qua.
Theo Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, hầu hết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa giai đoạn 2011 - 2015 đều không tính giá trị lợi thế quyền thuê đất vào giá trị DN.
Trong thực tế cho thấy, một số DN có diện tích đất lớn, vị trí đắc địa nhưng không tính giá trị lợi thế quyền thuê đất vào giá khởi điểm để đấu giá trị giá đúng giá cao hơn nhiều với giá khởi điểm.
Theo đại biểu, hai thông số quan trọng trong việc xác định giá đất là tỷ lệ phần trăm và giá đất cụ thể đều không thể hiện hết tính hiệu quả trong xác định giá trị, lợi thế quyền thuê đất của DN cổ phần.
Do đó, đại biểu kiến nghị, để bảo đảm lợi ích nhà nước và phản ánh đúng giá trị thực tế của DN cần xem xét lại quy định liên quan đến xác định giá trị quyền thuê đất và giá trị DNNN khi cổ phần hóa.
Không để xảy ra sai phạm khi phê duyệt phương án sử dụng đất
Về quản lý đất đai, thất thoát đất đai khi cổ phần hóa, đại biểu Hoàng Quang Hàm cho rằng, vấn đề này đã được khắc phục một bước khi ban hành Nghị định 126 của Chính phủ. Theo đó, DN thuộc diện cổ phần hóa có trách nhiệm rà soát toàn bộ diện tích đang quản lý sử dụng để lập và hoàn thiện phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật có liên quan trước thời điểm cổ phần hóa.
Tuy nhiên, Chính phủ cần chỉ đạo kiểm tra, giám sát các bộ, ngành địa phương khi phê duyệt phương án sử dụng đất và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau cổ phần hóa. Không để xảy ra sai phạm khi phê duyệt phương án sử dụng đất hoặc để xảy ra doanh nghiệp sau cổ phần hóa chuyển đổi mục đích sử dụng đất không đúng quy định như kinh doanh bất động sản, làm nhà ở, chung cư thương mại kiếm lời gây thất thoát tài sản nhà nước.
Giữ vững vị trí then chốt của DNNN
Theo đại biểu Hoàng Quang Hàm, chủ trương nhất quán của Đảng - DNNN giữ vững vị trí then chốt là lực lượng vật chất quan trọng của nền kinh tế Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.
Để duy trì được vị trí then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng theo chủ trương của Đảng cần một lượng vốn nhất định. Ngoài lượng vốn, các DNNN ở lĩnh vực then chốt đang nắm giữ cũng có lúc cần bổ sung để duy trì phần vốn góp để đầu tư mở rộng hoàn thành nhiệm vụ mới.
Vì vậy, đối với tiền thu từ thoái vốn cổ phần hóa cần tính toán số vốn dành riêng duy trì và phát triển DNNN theo đúng chủ trương của Đảng. Cần tính toán từ bây giờ, tránh tình trạng tiền thu được sử dụng cho đầu tư và các nhiệm vụ khác khi cần phát triển cho DNNN lại không thu xếp được.
Hơn nữa, cũng cần nhận thức chủ trương thoái vốn thực chất là quá trình cơ cấu lại danh mục vốn đầu tư của Nhà nước với mục tiêu thu hồi vốn đầu tư vào những lĩnh vực không then chốt, tất yếu để chuyển sang đầu tư tại doanh nghiệp đầu tư then chốt, thiết yếu. Vì vậy, việc cổ phần hóa, thoái vốn, sử dụng tiền thu được từ thoái vốn cổ phần hóa cũng cần cân nhắc nội dung này.
Đại biểu Hoàng Quang Hàm cũng đề nghị cần rà soát, xử lý dứt điểm theo đúng tinh thần của Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là đến năm 2020 tập trung xử lý dứt điểm các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty, các dự án của Nhà nước đầu tư kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Không chỉ 12 dự án ngành công thương, hay Tổng công ty tàu thủy Vinashin, mà cần rà soát tổng thể các dự án, các DN thua lỗ khác bảo đảm lợi ích của Nhà nước, không để tình trạng tiếp tục cấp vốn do thua lỗ kéo dài, hoặc tình trạng nhiều tài sản không sử dụng hao mòn theo thời gian, chi phí lãi vay để bảo toàn tài sản và để cử tri yên tâm.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có quy định cụ thể về xử lý cổ tức và lợi nhuận của Nhà nước chưa chưa trước khi thoái vốn hoặc cổ phần hóa DN hiện chưa rõ ràng. Đồng thời, có phương án xử lý để bảo đảm lợi ích của Nhà nước đối với DN đã thái vốn, hoặc cổ phần hóa, nhưng không chia cổ tức, hoặc lợi nhuận cho nhà nước. Có trường hợp không công bố rõ khoặc minh bạch thông tin về số liệu cổ tức và lợi nhuận chưa chia khi thoái vốn, cổ phần hóa./.
Hà Linh