Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán để phòng, chống tham nhũng

08/08/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Để phát huy tốt hơn vai trò trong phòng, chống tham nhũng (PCTN), lãng phí, Kiểm toán nhà nước (KTNN) cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa các quy định liên quan đến nhiệm vụ này. Đồng thời, KTNN cần xây dựng quy trình kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng với những yêu cầu, thủ tục riêng mang tính bắt buộc.

Cụ thể hóa quy định về kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng

 Tại Tọa đàm “Pháp luật về KTNN đối với PCTN, lãng phí - Thực trạng và vấn đề đặt ra” do KTNN tổ chức mới đây, các nhà khoa học, nhà quản lý đều thống nhất rằng, hiện nay, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của KTNN trong PCTN, lãng phí theo Luật PCTN, Luật Thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí đã cơ bản rõ ràng. Tuy nhiên, các nội dung này chưa được cụ thể hóa trong Luật KTNN cũng như các quy trình, chuẩn mực, văn bản hướng dẫn của Ngành.

Theo khoản 2, Điều 61 Luật PCTN, KTNN ra quyết định kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng khi có căn cứ theo quy định của Luật KTNN. Tuy nhiên, Luật KTNN chưa đưa ra được những quy định về “căn cứ để ra quyết định kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng”. Khoản 2, Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN chỉ bổ sung quy định về trường hợp xem xét, quyết định việc kiểm toán theo quy định của Luật PCTN.

Đây là vấn đề có tính then chốt, phức tạp, cần được thể chế về nguyên tắc trong Luật KTNN và diễn giải cụ thể bằng các quy định, hướng dẫn. Mục tiêu hướng đến là để khi thực hiện khảo sát thông tin, xây dựng kế hoạch kiểm toán hoặc quá trình kiểm toán có thể xác định ngay được vụ việc và đề xuất Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành quyết định kiểm toán “vụ việc có dấu hiệu tham nhũng” như Luật PCTN quy định.

Bên cạnh đó, khoản 2, Điều 46 Luật KTNN quy định thành viên đoàn kiểm toán được thực hiện nghiệp vụ điều tra đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán. Tuy nhiên, nghiệp vụ điều tra trong kiểm toán không thể thực hiện như điều tra hình sự. Mặt khác, khi thực hiện nghiệp vụ điều tra, kiểm toán viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về phạm vi, đối tượng, cách thức, thẩm quyền xử lý ở từng bước, đồng thời không bị quá hạn chế về mặt thời gian như hoạt động kiểm toán thông thường.

Tất cả những nội dung này đòi hỏi KTNN phải có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng về các dấu hiệu, biểu hiện, hành vi tham nhũng, lãng phí trong các lĩnh vực và nghiệp vụ phát hiện, cách thức đánh giá, kết luận xử lý tương ứng cho từng trường hợp, nhất là ở các lĩnh vực nhạy cảm như đầu tư dự án, quản lý sử dụng đất đai, đấu thầu mua sắm, kê khai thu nộp thuế.

Ngoài ra, một số quy định về trình tự thủ tục kiểm toán, xác định mục tiêu, nội dung, thời gian kiểm toán (không quá 60 ngày), thời hạn phát hành báo cáo kiểm toán (không quá 45 ngày, trường hợp đặc biệt được kéo dài không quá 60 ngày kể từ ngày kết thúc kiểm toán) cũng ảnh hưởng đến việc tập trung cho mục tiêu phát hiện và PCTN, lãng phí, thậm chí còn đem đến rủi ro về mặt pháp lý cho chính KTNN.

Để khắc phục những vướng mắc, hạn chế về thời gian, KTNN cần có hướng dẫn việc tăng cường kiểm toán những lĩnh vực nhạy cảm, tiềm ẩn tham nhũng, lãng phí, tổ chức các cuộc kiểm toán theo chuyên đề chuyên sâu. Trong đó, những cuộc kiểm toán liên quan đến “vụ việc có dấu hiệu tham nhũng” cần được tổ chức riêng biệt và cho phép kéo dài thời gian thực hiện cũng như thời gian phát hành báo cáo kiểm toán.

Cần có chế tài về cung cấp thông tin cho hoạt động kiểm toán

 Theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN, KTNN được yêu cầu đơn vị được kiểm toán và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán... Tuy nhiên, việc thực thi quyền này còn khó khăn, đặc biệt là khi kiểm toán các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do Luật KTNN chưa quy định cụ thể thế nào là “cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán”; chưa có chế tài bắt buộc để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán, nhất là các đơn vị ngoài khu vực công cung cấp tài liệu, thông tin và thực hiện trách nhiệm giải trình.

PGS,TS. Đặng Văn Thanh cho rằng, luật pháp nói chung và Luật KTNN nói riêng cần có quy định và chế tài về cung cấp thông tin cho hoạt động kiểm toán. Trong đó, KTNN cần có văn bản quy định và hướng dẫn về việc trao đổi và cung cấp thông tin về PCTN giữa các cơ quan có liên quan. Đồng thời, phải có quy định mang tính quy phạm pháp luật về việc chuyển hồ sơ cho các cơ quan điều tra, cơ quan PCTN độc lập ở Trung ương và địa phương khi các vụ việc được phát hiện qua hoạt động kiểm toán, xác minh đánh giá thông tin do cơ quan chức năng yêu cầu và có thể cả trong quá trình tham gia tố tụng.

Cùng với đó, KTNN cần tham mưu để thể chế hóa một số quy định cụ thể về thực hiện quyền của kiểm toán viên nhà nước trong việc yêu cầu bên thứ ba, các đơn vị cung cấp dịch vụ thẩm định giá, tư vấn tổ chức đấu thầu, cơ quan hải quan, cơ quan quản lý thị trường, văn phòng công chứng… cung cấp các tài liệu, thông tin phục vụ kiểm toán. Đặc biệt, các đơn vị này phải có trách nhiệm giải trình, làm rõ về thông tin, tài liệu cung cấp theo yêu cầu của KTNN.

Nhằm đảm bảo các kết luận, kiến nghị của KTNN thực sự có hiệu lực, hiệu quả, KTNN cần bổ sung các chế tài cụ thể để các đơn vị được kiểm toán thực hiện nghiêm các kết luận, kiến nghị của KTNN. Luật cần có cơ chế xử lý những sai phạm, gian lận, chậm trễ trong thực hiện kiến nghị kiểm toán. Đồng thời, KTNN cũng đề xuất sửa các luật có liên quan để đảm bảo phù hợp với Luật KTNN và Luật PCTN./.

THÙY LÊ
(Báo Kiểm toán số 31/2022)

Xem thêm »