Xây dựng kế hoạch giai đoạn 2026-2030 phấn đấu đạt GDP 10%/năm trở lên

20/10/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(sav.gov.vn) - Đó là yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 18/10/2025 về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026-203

Thủ tướng yêu cầu các cấp, ngành xây dựng Kế hoạch 5 năm 2026 - 2030 quyết liệt, hiệu quả, phấn đấu tăng trưởng GDP bình quân từ 10%/năm.  

Theo đó, giai đoạn 2026 - 2030 là 5 năm cuối của Chiến lược phát triển KTXH 2021-2030, trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, phức tạp và khó lường, thách thức nhiều hơn cơ hội; đòi hỏi đất nước phải có tầm nhìn, tư duy và giải pháp đột phá để tăng trưởng nhanh, bền vững, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến 2045 là nước phát triển, thu nhập cao. Thủ tướng yêu cầu các cấp, ngành xây dựng Kế hoạch 5 năm 2026 - 2030 quyết liệt, hiệu quả, phấn đấu tăng trưởng GDP bình quân từ 10%/năm.
 
Đánh giá thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 đầy đủ, khách quan, trung thực
 
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu việc đánh giá thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 phải toàn diện, khách quan, trung thực, có so sánh với giai đoạn 2016-2020 và tình hình thế giới, khu vực. Nội dung đánh giá gồm kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, làm cơ sở đề ra giải pháp cho giai đoạn 2026-2030.
 
Đánh giá tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết 16/2021/QH15 và nghị quyết của HĐND các cấp. Trọng tâm là tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, xem xét hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực; tiến độ các dự án hạ tầng chiến lược như cao tốc Bắc - Nam, sân bay Long Thành, đường sắt tốc độ cao, hạ tầng năng lượng, khoa học công nghệ, số hóa.
 
Bên cạnh đó, cần đánh giá công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, chuyển đổi số; kết quả thực hiện quy hoạch, phát triển vùng, đô thị thông minh, kinh tế biển, nông thôn mới. Việc thực hiện các mục tiêu văn hóa, xã hội, y tế, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu cũng được xem xét. Cuối cùng, đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước, cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí -  hướng tới nền quản trị hiện đại, hiệu quả.
 
Xây dựng Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2026 -2030 phải có tầm nhìn, tư duy phát triển mới, đột phá
 
Đối với xây dựng Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2026-2030, Chỉ thị yêu cầu Kế hoạch phải bám sát đường lối, chủ trương, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ; nội dung văn kiện Đại hội Đảng các cấp; các chỉ đạo của Tổng Bí thư, Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo chủ chốt.
 
Định hướng phát triển phải đảm bảo các nội dung: tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng phải bền vững với mục tiêu tăng trưởng hai con số, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và khai thác hiệu quả lợi thế của hội nhập quốc tế sâu rộng; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Mục tiêu là hướng tới tăng trưởng nhanh, bền vững, bao trùm, toàn diện và mang lại lợi ích cho mọi người dân.
 
Xây dựng Kế hoạch 5 năm 2026-2030 trên cơ sở đánh giá toàn diện, chính xác kết quả thực hiện Kế hoạch 5 năm 2021-2025; dự báo đầy đủ bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực và trong nước thời gian tới; phải có tầm nhìn, tư duy phát triển mới, đột phá để nắm bắt và tận dụng tốt các cơ hội, vượt qua thách thức cũng như khắc phục những hạn chế, yếu kém của giai đoạn 2021-2025; kết hợp giữa tăng cường, phát huy nội lực với khai thác, huy động và tận dụng hiệu quả ngoại lực, trong đó nội lực là cơ bản, có vai trò quyết định, ngoại lực là quan trọng, đột phá.
 
Hệ thống chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 2026-2030 phải bảo đảm tính khả thi, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn và bám sát Chiến lược 10 năm 2021-2030. Các chỉ tiêu theo ngành, lĩnh vực phụ trách đảm bảo tính chính xác, đồng bộ và thống nhất về thông tin, số liệu thống kê trên phạm vi cả nước, phục vụ tốt công tác theo dõi, đánh giá và xây dựng kế hoạch.
 
Các nhiệm vụ, giải pháp đề ra phải: mang tính đột phá, đổi mới, mạnh mẽ, quyết liệt, khả thi, hiệu quả, phù hợp với khả năng thực hiện và cụ thể, mang tính hành động cho các ngành, các cấp, các địa phương với tinh thần: "Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi thì chỉ bàn làm, không bàn lùi";  bảo đảm "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ tiến độ, rõ kết quả, rõ thẩm quyền" và lượng hóa được; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu của kế hoạch phát triển KTXH, kế hoạch tài chính và kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030; phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt, đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp, người dân vào quá trình phát triển KTXH.
 
Dự kiến kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2026-2030 bao gồm các nội dung:
 
Bối cảnh xây dựng kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2026-2030; Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm giai đoạn 2026-2030; Các chỉ tiêu chủ yếu và một số cân đối lớn, trong đó, phải phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu của đất nước như: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2026-2030 đạt từ 10%/năm trở lên; GDP bình quân đầu người; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo/GDP;…
 
Các định hướng, nhiệm vụ chủ yếu:
 
Ưu tiên bố trí nguồn lực hoàn thiện hệ thống pháp luật với cấu trúc tinh gọn, hợp lý, khoa học. Bảo đảm công tác xây dựng và thi hành pháp luật bám sát thực tiễn, nắm bắt mọi cơ hội, khơi thông mọi nguồn lực, là "đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước. Đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển thị trường khoa học công nghệ, thu hút mọi nguồn lực cho phát triển; tập trung rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, chuyển từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm", giảm chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp. Bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực hiện công vụ. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát hiện, thu hút, tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. 
 
Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính, tạo bứt phá mạnh mẽ; tăng trưởng nhanh nhưng phải bền vững gắn với kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường huy động nguồn lực cho phát triển. Tập trung tháo gỡ những rào cản, khó khăn, vướng mắc của các loại thị trường. Củng cố mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế nhà nước; tiếp tục triển khai cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém, được kiểm soát đặc biệt và đầu tư công. Triển khai các giải pháp đột phá, trọng tâm, có tính khả thi cao để đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về đầu tư, giải phóng nguồn lực trong giai đoạn 2026-2030. Thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
 
Phát triển kinh tế tư nhân là động lực hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo; ưu tiên xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu; tích cực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời nâng đỡ thành phần kinh tế hộ, kinh tế hợp tác.
 
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Xây dựng và thực thi cơ chế, chính sách đột phá, ưu tiên nguồn lực phát triển khoa học công nghệ, tập trung vào 11 nhóm ngành công nghệ chiến lược. Thúc đẩy phát triển kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp sáng tạo, công nghệ chiến lược, kinh tế chia sẻ, kinh tế dữ liệu, sản xuất thông minh, thương mại điện tử và tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ trên môi trường số.
 
Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp, công nghệ chiến lược; tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất và thể chất người học gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hệ thống giáo dục phải được đổi mới sâu rộng, tập trung phát triển các kỹ năng sáng tạo, kỹ năng khởi nghiệp, STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học), ngoại ngữ (đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học), kỹ năng số và công nghệ hiện đại. 
 
Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, khai thác hiệu quả không gian phát triển mới, phát triển đô thị và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới. Trọng tâm gồm: Tập trung đầu tư, hoàn thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia (như: trục giao thông đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, các cảng biển cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế, các cảng hàng không lớn, tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, các tuyến đường sắt kết nối quốc tế; hệ thống truyền tải điện 500 kV quốc gia…), phát triển hệ thống đường sắt đô thị Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, kết nối cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Long Thành và các tuyến cao tốc đảm bảo mục tiêu 5.000km đường bộ cao tốc; Tái khởi động xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận, với mục tiêu hoàn thành công tác đầu tư xây dựng vào trước ngày 31/12/2030; Đẩy mạnh phát triển hạ tầng năng lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn mới, bảo đảm an ninh năng lượng...
 
Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của Nhân dân. Thực hiện đầy đủ, kịp thời, có đổi mới chế độ, chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, nhất là đối với người có công, người cao tuổi, trẻ em, bình đẳng giới, người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng dân tộc thiểu số và miền núi...
 
Quản lý và sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên, khoáng sản quan trọng; tăng cường bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
 
Củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, gắn kết chặt chẽ và trở thành thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, có sức cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 
Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, trọng tâm là ngoại giao kinh tế, ngoại giao công nghệ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy vai trò, vị thế, uy tín của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. 
 
Chỉ thị yêu cầu trên cơ sở các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cụ thể hóa các giải pháp, chính sách để xây dựng Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2026-2030 bảo đảm thống nhất về nguyên tắc, mục tiêu chung, phù hợp với điều kiện thực tiễn và trình độ phát triển của từng ngành, lĩnh vực và từng địa phương; bám sát danh mục các dự án trọng điểm quốc gia được đề xuất trong trong dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng./.
 
Thảo Chi

Xem thêm »