(sav.gov.vn) - Để thích ứng với sự thay đổi và yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, Kiểm toán nhà nước (KTNN) xác định “phát triển công nghệ” là một trong ba trụ cột phát triển KTNN đến năm 2030, đồng thời đã ban hành Chiến lược tổng thể phát triển công nghệ thông tin (CNTT) giai đoạn 2019-2025 và tầm nhìn đến năm 2030.
Quang cảnh Tọa đàm “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của KTNN và vai trò của đoàn viên, thanh niên”
Ưu tiên phát triển các phần mềm hỗ trợ hoạt động kiểm toán
Thực tế cho thấy, thời gian qua, việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động kiểm toán đã được KTNN đặc biệt quan tâm và đạt được những kết quả quan trọng. KTNN đã đầu tư cơ sở về CNTT gắn với việc đầu tư hệ thống máy móc, hạ tầng CNTT và một số phần mềm căn bản nhằm xây dựng nền tảng cho các ứng dụng CNTT trong hoạt động kiểm toán, phục vụ công tác quản lý điều hành, góp phần từng bước phát huy hiệu quả trong hoạt động kiểm toán, tăng cường tính chuyên nghiệp, hiện đại.
Hiện nay, KTNN đang triển khai 32 ứng dụng và cơ sở dữ liệu bao gồm các ứng dụng phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành; ứng dụng quản lý hoạt động chuyên ngành; các hệ thống kênh giao tiếp của KTNN và các hệ thống phục vụ tích hợp. Từ năm 2019, KTNN là một trong những cơ quan đầu tiên thực hiện thành công việc đưa tất cả ứng dụng trao đổi dữ liệu vào trục tích hợp.
Đặc biệt, 12 phần mềm hỗ trợ hoạt động kiểm toán được ưu tiên phát triển để hỗ trợ công tác kiểm toán từ khâu lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán đến khâu lập, phát hành báo cáo kiểm toán và theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán. KTNN cũng đã thực hiện kết nối trục liên thông văn bản quốc gia với tất cả các bộ, ngành, cơ quan trung ương, các địa phương.
Từ đó, các kiểm toán viên (KTV) đã có thể sử dụng các phần mềm để triển khai nhiệm vụ theo từng giai đoạn, bao gồm: phần mềm cổng trao đổi thông tin kiểm toán để khai thác một số thông tin cơ bản về đơn vị được kiểm toán (giai đoạn khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán); phần mềm tổng hợp kết quả kiểm toán và quản lý hồ sơ kiểm toán (giai đoạn thực hiện kiểm toán và phát hành báo cáo kiểm toán); phần mềm theo dõi kết quả thực hiện kiến nghị (giai đoạn theo dõi tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán). Việc cập nhật kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán về cơ bản được cập nhật lên hệ thống phần mềm của KTNN đầy đủ.
Việc ứng dụng công nghệ hiện đại đã giúp cho việc phân tích thông tin, dữ liệu của kỹ thuật viên được nhanh chóng và chính xác hơn, tạo nguồn dữ liệu lớn phục vụ cho hoạt động kiểm toán như: tập hợp được nhiều thông tin từ tổng hợp đến chi tiết liên quan đến các đầu mối kiểm toán; lưu trữ hồ sơ kiểm toán của đoàn, tổ kiểm toán trong tất cả các giai đoạn của quy trình kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định nội dung, phạm vi, trọng tâm, trọng yếu kiểm toán, góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán.
Bên cạnh đó, triển khai Chiến lược phát triển và Kiến trúc tổng thể CNTT của KTNN giai đoạn 2019-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Trung tâm tin học đã hoàn thành và đưa vào hoạt động dự án “Xây dựng nền tảng tích hợp, kết nối liên thông dữ liệu của KTNN với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đơn vị được kiểm toán”. Dự án bước đầu triển khai kết nối trao đổi dữ liệu với hệ thống của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng nhà nước.
Trung tâm tin học cũng đã hoàn thành công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án “Xây dựng nền tảng dữ liệu lớn và hệ thống quản lý thông tin đối tượng kiểm toán”; tiếp nhận ý kiến góp ý của chuyên gia và 03 Bộ ngành và ý kiến của Hội đồng thẩm định của KTNN. Thực hiện chỉnh sửa, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu khả thi theo ý kiến góp ý và ý kiến thẩm định để trình lãnh đạo KTNN phê duyệt.
Thay đổi từ nhận thức đến hành động
Theo Phó Giám đốc Trung tâm tin học Nguyễn Văn Quang, công nghệ đóng vai trò then chốt, thiết lập, định hướng cho quá trình xây dựng, hình thành các hệ thống nền tảng quản trị thông minh, góp phần đưa KTNN tham gia tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế số và thích ứng linh hoạt với sự thay đổi quá trình chuyển đổi số trong tương lai. Trong đó, việc xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tiếp cận, cung cấp dữ liệu điện tử của các đơn vị được kiểm toán là yếu tố then chốt.
Thời gian tới, KTNN cần rà soát các quy định, quy chế có liên quan đến ứng dụng CNTT, trong đó, tập trung điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật, bổ sung các quy định liên quan đến trách nhiêm cung cấp dữ liệu điện tử của đơn vị được kiểm toán; việc tích hợp, kết nối, trao đổi dữ liệu điện tử giữa KTNN và đối tượng được kiểm toán. Đây được xem là điều kiện cần, mang yếu tố quyết định cho việc có triển khai được hạ tầng dữ liệu của KTNN.
Cùng với đó, xây dựng cơ chế, chính sách của KTNN liên quan để tạo tiền đề xây dựng, phát triển hạ tầng dữ liệu của KTNN, bao gồm: quản trị dữ liệu; thu thập, số hóa dữ liệu; nhân lực CNTT; đảm bảo an toàn thông tin trong triển khai ứng dụng CNTT. Hạ tầng dữ liệu của KTNN được xây dựng đầy đủ, phù hợp sẽ là nền tảng cho việc hình thành cơ sở dữ liệu tập trung về đơn vị được kiểm toán, các phần mềm, công cụ phân tích thông tin, đánh giá rủi ro, xác định mức rủi ro, trọng yếu kiểm toán nhằm hỗ trợ công tác lập kế hoạch cũng như giúp KTV thực hiện các kỹ thuật kiểm toán và theo dõi việc thực hiện kiến nghị kiểm toán… hướng tới kiểm toán dựa trên dữ liệu lớn.
Một yêu cầu không thể thiếu là nâng cao nhận thức về CNTT trong hoạt động kiểm toán. Hiện nay, lãnh đạo KTNN đã ban chiến lược phát triển KTNN, và chiến lược phát triển CNTT với từng giai đoạn cụ thể, coi đây là nhiệm vụ bắt buộc. Tuy nhiên, trên thực tế, CNTT vẫn được coi là xa vời, phức tạp, khó thực hiện. Do vậy, KTNN cần phải tuyên truyền, đào tạo, kiểm tra, giám sát và tăng cường học hỏi các cơ quan kiểm toán tối cao để KTV nhà nước vừa được nâng cao trình độ, vừa có trách nhiệm trong việc ứng dụng CNTT.
Theo đó, KTNN cần đổi mới chương trình, nội dung, phương thức đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng hình thức đào tạo trực tuyến nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực về CNTT. Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ chuyên trách CNTT, trong đó chú trọng đào tạo chuyên sâu và cập nhật công nghệ mới, đào tạo “kỹ sư phân tích dữ liệu” để khai thác và đủ khả năng quản lý, vận hành và phát triển hạ tầng dữ liệu của KTNN trong thời kỳ chuyển đổi số. Các KTNN chuyên ngành, khu vực cần hình thành bộ phận chuyên trách về CNTT để triển khai quản trị dữ liệu tại đơn vị.
Đặc biệt, đội ngũ KTV phải chủ động nâng cao năng lực khai thác, phân tích dữ liệu thông qua việc áp dụng các công cụ CNTT. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các KTV trong giai đoạn này là làm chủ công nghệ, biết sử dụng các công cụ xử lý, tính toán dựa trên công nghệ số và khai thác kết quả mà các công cụ này mang lại một cách chuyên nghiệp.
Theo Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Bùi Quốc Dũng, trong bối cảnh các đơn vị được kiểm toán ngày càng phát triển nhanh và mạnh về công nghệ, ứng dụng CNTT trong hoạt động kiểm toán là đòi hỏi cấp bách, là nhiệm vụ sống còn cho sự phát triển của KTNN. Tuy nhiên, ứng dụng CNTT và chuyển đổi số là một hành trình dài và toàn diện, có công nghệ nhưng không thay đổi về nhận thức và hành động thì không có kết quả. Ngược lại, muốn thay đổi nhưng không có công nghệ, công cụ hỗ trợ thì cũng không thực hiện được. Bởi vậy, trước tiên, các KTV phải thay đổi từ nhận thức, sau đó là sở hữu công nghệ.
“Để tăng cường ứng dụng CNTT vào hoạt động kiểm toán, hạ tầng dữ liệu đầy đủ, phù hợp là điều kiện tiên quyết, là nền tảng cho thành công. Trong đó, dữ liệu là yếu tố đầu vào của sản xuất, dữ liệu phải được khai thác, xử lý thì mới sinh ra giá trị, từ đó có hạ tầng dữ liệu đầy đủ, phù hợp. KTV phải có ý thức sử dụng, khai thác để làm giàu cơ sở dữ liệu kiểm toán”, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Bùi Quốc Dũng nhấn mạnh.
Thời gian tới, để CNTT thực sự trở thành thế mạnh, KTNN cần lựa chọn đơn vị triển khai thực hiện thí điểm kiểm toán dữ liệu lớn và đầu tư xây dựng hạ tầng CNTT tương ứng. Trong đó, ưu tiên việc phân tích đối chiếu các dữ liệu quốc gia đã sẵn sàng kết nối như: cơ sở dữ liệu quốc gia thuế, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm, thông tin tín dụng… Trên cơ sở triển khai ở cấp độ đơn vị, tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để nhân rộng áp dụng trong toàn ngành.
Thông qua việc đẩy mạnh CNTT, KTNN công khai, minh bạch kết quả kiểm toán một cách nhanh nhất tới công chúng nhằm thúc đẩy trách nhiệm giải trình của Chính phủ và các đơn vị sử dụng nguồn lực công. Đây cũng chính là đóng góp quan trọng của KTNN nhằm sớm ngăn chặn, cảnh báo các hành vi gian lận, tham nhũng, lạm dụng quyền lực có thể xảy ra trong tương lai.
Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 (giai đoạn 2021-2030) đã xác định “Công nghệ đóng vai trò then chốt, thiết lập, định hướng cho quá trình xây dựng, hình thành các hệ thống nền tảng quản trị thông minh, góp phần đưa KTNN tham gia tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế số và thích ứng linh hoạt với sự thay đổi quá trình chuyển đổi số trong tương lai…”. |
NGUYỄN LY