Theo chuẩn mực kế toán số 01 (VAS 01) định nghĩa: “Doanh thu là giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu”.

  Trên thế giới, kiểm toán nội bộ (KTNB) đã có lịch sử tồn tại và phát triển trên 60 năm và được thừa nhận ở trên 165 quốc gia như một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Cùng với sự phát triển năng động và ngày càng phức tạp của nền kinh tế, vai trò và chức năng của KTNB trong việc đưa ra đảm bảo về việc đơn vị có thể kiểm soát một cách hữu hiệu rủi ro đã dần được công nhận trong tất cả các khu vực kinh tế công, kinh tế tư nhân, và cả các tổ chức phi lợi nhuận. ở nước ta, thuật ngữ về KTNB tuy đã được đề cập tới từ cuối những năm 90 nhưng phải đến thời gian gần đây, thì KTNB mới được nhắc đến nhiều như là một công cụ hoặc một chức năng quản trị của đơn vị...

  Kiểm toán nội bộ (KTNB) là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một đơn vị để xem xét và đánh giá các hoạt động của đơn vị với tư cách là một sự trợ giúp đối với nhà quản trị đơn vị. KTNB được hiểu là một bộ phận được đặt ra bên trong một đơn vị để thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá và xác minh độc lập thông tin về các hoạt động diễn ra bên trong đơn vị đó.

  Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đã có những khái niệm khác nhau về kiểm toán nội bộ (KTNB). Mỗi quan niệm phản ánh một giai đoạn, theo đó là một mức độ phát triển tương ứng của lĩnh vực này. Tuy nhiên, đến nay chỉ có hai định nghĩa KTNB chính thức được qui định trong “Các chuẩn mực nghề nghiệp KTNB” và “Tuyên bố về trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ” do Viện Kiểm toán viên nội bộ quốc tế (IIA) ban hành, lần đầu vào năm 1978, và lần sau - gần đây nhất vào năm 1999.

Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động tự kiểm tra, xem xét của các cơ quan hành chính nhà nước, được thực hiện bởi chủ thể quản lý có thẩm quyền, nhằm đánh giá ưu khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Từ khi Luật Kiểm toán Nhà nước (KTNN) có hiệu lực đến nay số lượng đầu mối được kiểm toán trong kế hoạch của KTNN đều tăng qua từng năm. Sự phát triển số lượng và quy mô kiểm toán đòi hỏi nhiều yếu tố khác cũng phải có sự chuyển biến đồng bộ, một trong số những vấn đề được đặt ra là sự phối hợp trong tổ chức thực hiện kiểm toán tại các đoàn kiểm toán.

Trong nền kinh tế toàn cầu hoá và cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, xu thế liên kết kinh tế đang là xu thế phổ biến trên. Sự ra đời của các tập đoàn kinh tế đã diễn ra mạnh mẽ tại các nước phát triển từ lâu và đang lan dần sang các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Để đáp ứng với sự phát triển, biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, kế toán Việt Nam cũng đang có những sự thay đổi, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu quản lý đó.

“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh…” (định nghĩa theo Luật Doanh nghiệp- 2005)

Mục tiêu của kế toán quản trị là cung cấp thông tin cho những nhà quản lý thực hiện các chức năng quản lý và vai trò của kế toán quản trị được thể hiện ở tính hữu ích của thông tin cung cấp cho nhà quản lý. Với những doanh nghiệp, hệ thống thông tin kế toán hầu hết bị bao phủ và thống trị bởi thông tin kế toán tài chính, thì tính hữu ích của thông tin kế toán quản trị cần được đề cao để chứng minh, bổ sung tốt hơn cho các quyết định quản lý.

Tài sản cố định (TSCĐ) trong các bệnh viện được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ được đầu tư, mua sắm bằng nguồn vốn NSNN cấp mà còn được đầu tư, mua sắm từ nguồn vốn vay, từ quĩ phát triển hoạt động sự nghiệp của bệnh viện và các nguồn khác. Trong quá trình sử dụng, TSCĐ bị hao mòn dần. Một phần giá trị hao mòn của TSCĐ là yếu tố chi phí tiêu dùng công và một phần là yếu tố chi phí của giá thành sản phẩm, dịch vụ khám, chữa bệnh.